Phân tích đoạn thơ lặn lội thân cò khi quãng vắng

Các tác phẩm vui lòng gửi về , đây là bài văn của HS Huỳnh Đặng Nhật Uyên – 11A10 (Năm học 2017 – 2018) nằm trong kế hoạch phát triển website của nhà trường.

Tác giả Trần Tế Xương (1870-1907) được nhiều người biết đến bằng cái tên vô cùng quen thuộc: Tú Xương. Ông nhiều lần đi thi đều đỗ tú tài. Ba mươi bảy mùa xuân – một quãng thời gian vô cùng ngắn ngủi, một tuổi đời còn quá trẻ nhưng ông đã mãi mãi ra đi. Ông ra đi, nhưng khoảng trên 100 bài thơ ông viết – một con số vô cùng ấn tượng đã trở thành những bài thơ bất hủ. Thơ ca của ông chủ yếu là thơ trào phúng mang giọng điệu phê phán, đả kích sắc sảo, cay độc mạnh mẽ và hiếm có. Nhưng ông không chỉ là một nhà thơ hiện thực mà đúng như Nguyễn Tuân đã nói: “Chất hiện thực ấy chỉ là “chân trái” còn “chân phải” là chất trữ tình”. Đúng vậy, sống trong thời kì thực dân nửa phong kiến đầy rẫy những cám dỗ, bất công, ông hiểu được tình cảnh loạn lạc của hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ. Một xã hội tối đen như mực, nhơ nhớp, thối nát đã đẩy biết bao con người vào thế “ngàn cân treo sợi tóc”, họ bị hà hiếp và bị ép vào bước đường cùng. Tội nghiệp hơn cả là thân phận của người phụ nữ, đặc biệt là những người mẹ, người vợ. Họ đều là những người dân vô tội, “thấp cổ bé họng”, nhỏ bé, bị vùi dập trước xã hội hôi tanh thối rữa ấy. Ông đồng cảm, xót xa cho thân phận của những người phụ nữ, đặc biệt hơn cả là người vợ của mình – người đã đồng hành cùng ông trong suốt quãng đời: bà Phạm Thị Mẫn. Và từ đó một tuyệt tác văn học của ông ra đời, bài thơ có nhan đề “Thương vợ”. Đây là tác phẩm tiêu biểu cho thơ trữ tình của ông, ông viết để dành tặng cho chính người vợ của mình.

Toàn cảnh bài thơ là cái nhìn chân thực về người vợ tần tảo, giàu đức hi sinh của tác giả. Ông đã nhấn mạnh được sự gian lao, vất vả của bà một cách hết sức nổi bật, rõ nét qua hai câu thơ:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

Trong cuộc sống này, chắc hẳn trong chúng ta ai ai cũng đã một lần được nghe qua câu ca dao xưa: “Con cò lặn lội bờ sông” rồi phải không? Trong hình ảnh “Lặn lội thân cò” tác giả đã sử dụng phép đảo ngữ, qua đó ông còn trau chuốt thêm bằng bàn tay nghệ sĩ tài hoa của mình để tô đậm thêm sự lam lũ, vất vả của vợ mình. “Lặn lội” là một hoạt động của con người, con người ta phải tự mình vượt một quãng đường xa, gian nan, vất vả thì mới đạt được đích đến thành công. “Xây dựng thành công từ thất bại. Sự chán nản và thất bại là hai bước đệm chắc chắn nhất dẫn tới thành công.” Đích đến của sự thành công không phải lúc nào cũng trải đầy hoa hồng, nó là một quá trình ta phải thử thách rèn luyện bản thân qua những biến động của cuộc sống. Bà Tú là một con người như thế, đường đi của bà luôn gập ghềnh, trắc trở nhưng không vì thế mà bà từ bỏ. “Gập ghềnh” ở đây không có nghĩa là con đường đất đầy đá, đầy ổ gà, ổ voi mà chính là con đường bà phải tự mình “lặn lội khi quãng vắng”. “Quãng vắng” là khung cảnh không gian mênh mông, heo hút, vắng tanh vắng ngắt người. Chỉ một mình ta chơi vơi, lẻ loi giữa dòng đời cô lập, hiu quạnh. Ai cũng vậy, dù chỉ mới tưởng tượng ra thôi mà đã thấy sợ hãi. Nhưng cũng nhờ vì cái khoảng không gian im ắng, tĩnh lặng đến rợn ngợp đó mà bao sự hi sinh thăng trầm, cơ cực, cay đắng của người phụ nữ ấy đã được tôn lên một cách rõ nét. Với bà Tú, không điều gì có thể ngăn cản được bước chân của bà, vì chồng vì con,  bà có thể làm được tất cả, sẵn sàng hi sinh tất cả. Điều này gợi lên sự can đảm, chịu thương chịu khó của bà. Đó là đức tính cao đẹp trong tâm hồn người phụ nữ nhỏ bé này. “Lặn lội thân cò khi quãng vắng”, trong câu này tác giả thật sáng suốt khi ông đã sử dụng biện pháp nghệ thuật tu từ ẩn dụ “Thân cò” để chỉ người vợ vất vả, cực nhọc, tần tảo sớm hôm của mình nhằm khắc họa đậm chất hình ảnh người vợ đảm đang, “một nắng hai sương”, không ngại khó, không ngại khổ, không quản khó khăn cực nhọc trong đời sống hằng ngày, không kêu ca than vãn một lời cho dù cuộc sống có vô vàn biến động, phong ba bão táp như thế nào đi chăng nữa. Ý thơ của tác giả đã đúc kết sâu sắc hơn cái dáng vẻ gầy guộc, mong manh của người vợ và cả nỗi đau về thân phận của người phụ nữ đảm đang, dịu hiền này – số phận thân cò nặng nề, vất vả và gian nan giữa cuộc sống khốn khó, cơ cực, thiếu thốn trăm bề đầy bế tắc. Hơn thế nữa, cái dáng vẻ gầy guộc, liêu xiêu ấy được ví như “thân cò” trông bà thật đáng thương, cơ hàn và nhỏ bé biết bao!

Nhưng chỉ thế thôi vẫn chưa đủ, ngoài ra, tác giả còn nhấn mạnh công đức lớn lao của bà Tú cho tổ ấm của mình trong câu thơ kế tiếp:

“Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

Từ láy “eo sèo” đã được ông sử dụng trong câu thơ này. Đó là tiếng kì kèo, phàn nàn, cãi vã một cách khó chịu, bức xúc, bực dọc giữa người này với người kia đã tạo nên một khung cảnh hỗn độn, cụ thể là trong công việc buôn bán của bà Tú. Giữa khách hàng và chủ hàng lúc nào cũng phải đôi co to tiếng, lời qua tiếng lại và cảm thấy như là một ngày yên bình, êm xuôi trong công việc làm ăn của bà là điều chưa bao giờ xảy ra. “Buổi đò đông” là hình ảnh miêu tả không gian đông đúc, nhộn nhịp, trái hẳn với không gian “quãng vắng” tăm tối, chứa đựng nhiều mối lo âu, hiểm nguy đáng sợ kia. Đó là nơi mọi người thường hay tụ tập, chen chúc và tranh giành nhau những món đồ trên chuyến đò một cách vô ý thức, bất lịch sự. Đây là câu thơ khắc họa đậm chất sự vật lộn với kế sinh nhai của bà Tú. Gặp phải chốn đò đông, bà luôn là người phải chịu cảnh bị xô đẩy, gò bó. Con người vốn đã nhỏ bé mà nay đứng trước hoàn cảnh ấy thì lại càng nhỏ bé, đáng thương, tội nghiệp hơn. Đặt bản thân mình vào hoàn cảnh này ai cũng cảm thấy uất ức chứ không riêng gì bà. Nhưng bà vẫn làm, vẫn cam chịu, vẫn gánh vác, vẫn đảm nhiệm công việc của mình. Ca dao xưa đã từng nói rằng: “Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua”. Có lẽ, bà cũng đã ghi nhớ lấy điều này nhưng vì mục tiêu là kiếm được miếng cơm manh áo cho gia đình, vì nền kinh tế gia đình còn khó khăn, nghèo khổ, vì bà là trụ cột chính trong gia đình, tất cả mọi việc đều trông cậy, phụ thuộc vào đồng lương ít ỏi của bà đi buôn bán hằng ngày trên chuyến đò đông cùng với dòng người xô bồ tấp nập xen lẫn với tiếng kì kèo, cãi vã ấy nên  bà cũng phải bất chấp tất cả, phải kiên quyết, phải lấm láp phong trần, hi sinh thầm lặng cuộc đời mình cho tổ ấm mà mình đã vun vén, xây dựng bấy lâu nay. Bà phải chịu cơ chịu cực, những buổi chen lấn trên sông nước đò giang lênh đênh đầy bất trắc như thế mà bà vẫn không sợ bất kì mối hiểm nguy nào. Bà vẫn thế, vẫn là người phụ nữ mạnh mẽ, quả cảm vì động lực lớn nhất tiếp thêm ngọn lửa sức mạnh cho bà để bà tiếp tục với công việc của mình chính là chồng, con. Gia đình là điều quý giá đã thắp lên ngọn lửa hi vọng trong tâm hồn người phụ nữ tần tảo, chừng mực này. Tú Xương đã thầm cảm thương cho cảnh ngộ và đức hi sinh cao cả của vợ mình. Không ai khác, ông là người hiểu hơn hết “tính hạnh khoan hòa” của bà, vì vậy ông đã dùng lời lẽ văn chương của mình để bộc lộ lên những điều này với tất cả sự thương cảm, xót xa đối với người phụ nữ đã gắn bó cùng ông suốt cuộc đời này. Mọi người trân trọng, cảm phục và nhớ tới ông nhiều hơn có lẽ là do họ nghe được nhịp đập của một trái tim chân thành, giàu cảm xúc, biết trọng nhân cách, mang nỗi đau vời vợi khôn nguôi đối với người vợ vĩ đại của mình. Quỹ đạo của thời gian có thể thay đổi nhưng niềm tin yêu mãnh liệt của ông đối với người phụ nữ này chưa bao giờ dập tắt. Ông đã xâu chuỗi vô vàn tình cảm của mình vào những ý thơ giản dị mà chân thực, làm thức tỉnh tâm hồn người đọc: Công lao của người vợ to lớn như trời bể, sự thông cảm, sẻ chia, biết ơn, trân trọng của người chồng đối với người vợ là điều quý giá nhất trong cuộc sống này.

Chỉ qua hai câu thơ cùng với một số biện pháp tu từ nghệ thuật như: ẩn dụ, từ láy, đảo ngữ cũng với những từ ngữ có sức gợi hình, gợi cảm cao, tác giả đã sử dụng ngòi bút tinh xảo của mình để làm hiện lên rõ nét người vợ tần tảo, biết lo toan bộn bề cuộc sống, có lòng thương chồng, yêu con vô bờ bến cùng với bản tính cần cù, nhẫn nại chăm lo, gánh vác cho gia đình để kiếm đủ cơm áo gạo tiền nuôi đủ “Năm con với một chồng”.  Bà là một người phụ nữ kiên cường, luôn sẵn sàng đối đầu với gian nan, thách thức, con đường tuy nhiều chông gai nhưng dường như điều này đã tôi luyện cho trái tim của bà ngày một sắt đá hơn. Đánh đổi cả thanh xuân của mình vì gia đình yêu dấu, bao nhiêu sự khổ cực có, nỗi vất vả có, cay đắng cũng có… nhưng tất cả đều không thể làm bà khuất phục, buông xuôi trước nghịch cảnh đầy éo le, ngang trái này. Ở đâu đó ta vẫn cảm thấy thấp thoáng một nụ cười hóm hỉnh của nhà thơ bày tỏ sự yêu thương, quý trọng đối với bậc hiền phụ tần tảo, giàu đức hi sinh. Không chỉ có thế, hai câu thơ này đã tái hiện được hình ảnh của bà Tú gian nan, đáng thương, cơ cực, bần hàn và tội nghiệp đến tột cùng. Ôi chao! Thật xót xa làm sao cho những thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa nói chung và số phận hẩm hiu, bi đát của bà Tú nói riêng.

Huỳnh Đặng Nhật Uyên – 11A10 (Năm học 2017 – 2018)

Thương vợ

(Tú Xương)

                                                Quanh năm buôn bán ở mom sông,

                                               Nuôi đủ năm con với một chồng.

                                               Lặn lội thân cò khi quãng vắng

                                               Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

                                               Một duyên hai nợ âu đành phận,

                                               Năm nắng mười mưa dám quản công.

                                               Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

                                               Có chồng hờ hững cũng như không.

I. Tác giả.

         Tú Xương là bút danh của Trần Tế Xương. Học vị tú tài, lận đận mãi trên con đường khoa cử: "Tám khoa chửa khỏi phạm trường quy". Chỉ sống 37 năm, nhưng sự nghiệp thơ ca của ông thì bất tử. Quê ở làng Vị Xuyên, thành phố Nam Định. "Ăn chuối ngự, đọc thơ Xương" là câu nói tự hào của đồng bào quê ông.

         Tú Xương để lại khoảng 150 bài thơ Nam, vài bài phú và văn tế. Có bài trào phúng. Có bài trữ tình. Có bài vừa trào phúng vừa trữ tình. Giọng thơ trào phúng của Tú Xương vô cùng cay độc, dữ dội mà xót xa. Ông là nhà thơ trào phúng bậc thầy trong nền văn học cận đại của dân tộc.

II. Chủ đề.

         Bài thơ ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người vợ, của người phụ nữ đảm đang, chịu thương chịu khó vì hạnh phúc chồng con.

III. Hình ảnh bà Tú, người vợ hiền thảo.

         Câu 1, 2 giới thiệu bà Tú là người giỏi buôn bán, tần tảo "quanh năm" buôn bán kiếm sống ở "mom sông" cảnh đầu chợ bến đò, buôn thúng bán mẹt. Chẳng có cửa hàng cửa hiệu. Vốn liếng chẳng có là bao. Thế mà vẫn "Nuôi đủ năm con với một chồng". Chồng đậu tú tài, chẳng là quan chẳng là cùng đinh "Ăn lương vợ". Một gia cảnh "Vợ quen dạ đẻ cách năm đôi". Các số từ "năm” (con), "một" (chồng) quả là đông đủ. Bà Tú vẫn cứ ''nuôi đủ", nghĩa là ông Tú vẫn có "Giày giôn anh dận, ô Tây anh cầm". Câu thứ hai rất hóm hỉnh.

         Câu 3, 4 mượn hình ảnh con cò trong ca dao, tạo thành "thân cò" - thân phận lam lũ, vất vả "lặn lội". Cò thì kiếm ăn nơi đầu ghềnh, cuối bãi, bà tú thì lặn lội... khi quãng vắng, nơi mom sông. Cảnh lên đò xuống bến, cảnh cãi vã giành giật bán mua "eo sèo mặt nước buổi đò đông" để kiếm bát cơm manh áo cho chồng, con. Hình ảnh "thân cò" rất sáng tạo, vần thơ trở nên dân dã, bình dị. Hai cặp từ láy "lặn lội'' và "eo sèo" hô ứng, gợi tả một cuộc đời nhiều mồ hôi và nước mắt.

         Câu 5, 6 tác giả vận dụng rất hay thành ngữ: ''một duyên hai nợ" và "năm nắng mười mưa". Ba tiếng đối ứng thượng, hạ: "âu đành phận", "dám quản công” như một tiếng thở dài. Có đức hi sinh. Có sự cam chịu số phận, có cả tấm lòng chịu đựng, lo toan vì nghĩa vụ người vợ, người mẹ trong gia đình. Tú Xương có tài dùng số từ tăng cấp (1-2-5-10) để nói lên đức hi sinh thầm lặng cao quý của bà Tú:

"Một duyên hai nợ âu đành phận,

          Năm nắng mười mưa dám quản công ".

         Tóm lại, bà Tú hiện thân của cuộc đời vất vả lận đận, là hội tụ của bao đức tính tốt đẹp: tần tảo, gánh vác, đảm đang, nhẫn nại,... tất cả lo toan cho hạnh phúc chồng còn. Nhà thơ bộc lộ lòng cảm ơn, nể trọng.

IV. Nỗi niềm nhà thơ.

         Câu 7 là một tiếng chửi, đúng là cách nói của Tú Xương vừa cay đắng vừa phẫn nộ "Cha mẹ thói đời ăn ở bạc". "Cái thói đời" đó là xã hội dở tây dở ta, nửa phong kiến, nửa thực dân: khi mà đạo lí suy đồi, lòng người đảo điên. Tú Xương tự trách mình là kẻ "ăn ở bạc" vì thi mãi chẳng đỗ, chẳng giúp ích gì cho vợ con. Suốt đời vợ con phải khổ, như có bài thơ ông tự mỉa: "Vợ lăm le ở vú - Con tấp tểnh đi bồi - Khách hỏi nhà ông đến - Nhà ông đã bán rồi".

         Câu 8 thầm thía một nỗi đau chua xót. Chỉ có Tú Xương mới nói được rung động và xót xa thế: "Có chồng hờ hững cũng như không?". "Như không" gì? Một cách nói buông thõng, ngao ngán. Nỗi buồn tâm sự gắn liền với nỗi đau thế sự. Một nhà nho bất đắc chí!

V. Kết luận:

         Bài thơ có cái hay riêng. Hay từ nhan đề. Hay ở cách vận dụng ca dao, thành ngữ và cả tiếng chửi. Chất thơ mộc mạc, bình dị mà trữ tình đằm thắm. Trong khuôn phép một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật, từ thanh điệu niêm và vần đến phép đối được thể hiện một cách chuẩn mực, tự nhiên, thanh thoát. Tác giả vừa tự trách mình, vừa biểu lộ tình thương vợ, biết ơn vợ. Bà Tú là một hình ảnh đẹp đẽ của người phụ nữ Việt Nam trong một gia đình đông con, nhiều khó khăn về kinh tế. Vì thế nhiều người cho rằng câu thơ "Nuôi đủ năm con với một chồng" là câu thơ hay nhất trong bài "Thương vợ".

Loigiaihay.com