Phân tích và đánh giá nội dung về THE giới quan và nhân sinh quan trong triết học Phật giáo

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Phật giáo là một trào lưu triết học – tôn giáo xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ VI (TCN) ở Bắc Ấn Độ. Trong quá trình phát triển, tầm ảnh hưởng của Phật giáo đã vượt ra khỏi lãnh thổ Ấn Độ, lan tỏa đến rất nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

Ở Việt Nam, Phật giáo du nhập trước tiên vào khu vực đồng bằng sông Hồng và hình thành các trung tâm Phật giáo ở nơi đây trong đó có vùng đất Thăng Long - Hà Nội. Lịch sử đã chứng minh trong suốt quá trình tồn tại và phát triển, TLNSPG đã thấm sâu trong đạo đức, văn hóa truyền thống của người dân Hà Nội.

Năm 1986 đánh dấu mốc khởi đầu quan trọng của công cuộc Đổi mới toàn diện do Đảng và Nhà nước ta khởi xướng. Song song với tiến trình xây dựng nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập quốc tế của đất nước, thủ đô Hà Nội - trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của cả nước cũng có những vận động, đổi thay nhanh chóng về nhiều mặt. Sự biến đổi trong đời sống kinh tế - xã hội đã dẫn đến những thay đổi mạnh mẽ trong quan niệm về lối sống, về những giá trị đạo đức của người dân Hà Nội. Một bộ phận thanh niên trở nên coi trọng giá trị vật chất, đề cao sự hưởng thụ, chủ nghĩa cá nhân, quay lưng lại với các giá trị truyền thống dân tộc… Thực tế đó ở Hà Nội cũng phản ánh thực trạng chung hiện nay của đạo đức thanh niên Việt Nam. Điều này đang đặt ra yêu cầu bức thiết phải tìm giải pháp để phát huy những yếu tố tích cực, khắc phục những yếu tố tiêu cực trong đạo đức của thanh niên Việt Nam hiện nay.

Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”. Trong giai đoạn hiện nay, thanh niên là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, Đảng ta đã đặt thanh niên ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy nguồn lực con người, hướng đến xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ và phẩm chất. Việc giáo dục đạo đức cho thanh niên cần phối hợp nhiều biện pháp khác nhau, trong đó việc phát huy các giá trị tích cực trong tư tưởng của các tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng đóng một vai trò quan trọng.

Trong giai đoạn hiện nay, với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đồng thời cũng là một bộ phận của văn hóa truyền thống dân tộc, TLNSPG vẫn tiếp tục có ảnh hưởng không nhỏ đến tư tưởng, văn hóa, đạo đức người Hà Nội. Sự ảnh hưởng đó có thể thấy rõ ở xu hướng tham dự vào các sinh hoạt Phật giáo, tìm hiểu tư tưởng Phật giáo và hướng đến hành động theo những giá trị nhân sinh của Phật giáo đang ngày càng lan rộng trong đời sống sinh hoạt của người dân Hà Nội, trong đó có sự tham gia tích cực của nhiều thanh niên.

Do vậy, chúng tôi đã quyết định lựa chọn đề tài “Ảnh hưởng của TLNSPG đối với ĐĐTN ở Hà Nội hiện nay” cho luận án tiến sĩ triết học với mong muốn góp phần nghiên cứu, làm sáng tỏ vai trò của TLNSPG trong đời sống đạo đức của thanh niên ở Thủ đô Hà Nội hiện nay.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

* Mục tiêu: Làm rõ những nội dung cơ bản của TLNSPG và ảnh hưởng của nó đến ĐĐTN ở Hà Nội hiện nay, trên cơ sở đó đề ra quan điểm và một số giải pháp nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của TLNSPG đối với ĐĐTN ở Hà Nội hiện nay.

* Nhiệm vụ:

- Làm rõ nội dung TLNSPG và đặc điểm TLNSPG ở Việt Nam.

-  Phân tích quá trình Phật giáo du nhập và phát triển ở Hà Nội và một số đặc trưng của Phật giáo ở Hà Nội.

- Phân tích thực trạng và các vấn đề đặt ra từ ảnh hưởng của TLNSPG đối với ĐĐTN ở Hà Nội hiện nay.

- Đề xuất quan điểm và một số giải pháp nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của TLNSPG đối với ĐĐTN ở Hà Nội hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

* Đối tượng: Triết lý nhân sinh Phật giáo và những ảnh hưởng của TLNSPG đến ĐĐTN Hà Nội hiện nay.

* Phạm vi:

Về thời gian: Nghiên cứu sự ảnh hưởng của TLNSPG đến ĐĐTN ở Hà Nội giai đoạn từ sau Đổi mới đến nay.

Về không gian: Địa giới hành chính của Hà Nội bao gồm cả những khu vực có sự sát nhập với tỉnh Hà Tây và một số địa phương thuộc tỉnh Vĩnh Phúc và tỉnh Hòa Bình (Giới hạn hành chính địa bàn Hà Nội sau 2008).

Về khách thể: Thanh niên ở Hà Nội là những người Việt Nam ở độ tuổi từ 16 đến 30, có thời gian sinh sống, học tập (làm việc) tại Hà Nội từ 1 năm trở lên.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

* Cơ sở lý luận

Luận án dựa trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử trong đó đặc biệt là mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội và sự tác động biện chứng giữa các hình thái ý thức xã hội; tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề về tôn giáo, văn hóa, đạo đức nói chung và về Phật giáo nói riêng.

* Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng các phương pháp chủ yếu của Triết học như phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, lôgic, lịch sử, đối chiếu, so sánh… Đồng thời kết hợp với một số phương pháp nghiên cứu liên ngành và chuyên ngành như sử học, văn hóa học, nhân học, xã hội học (điều tra khảo sát, phỏng vấn sâu, phân tích định tính và phân tích định lượng…) nhằm thực hiện mục đích, nhiệm vụ đề ra.

5. Đóng góp về mặt khoa học của luận án

- Luận án đã góp phần làm rõ khái niệm, nội dung cơ bản và giá trị của TLNSPG.

- Luận án đã làm rõ những đặc điểm của TLNSPG ở Việt Nam.

- Luận án đã phân tích, đánh giá ảnh hưởng của TLNSPG đến ĐĐTN ở Hà Nội hiện nay về phương thức, mức độ và nội dung.

 - Từ đó, luận án nêu lên một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của TLNSPG đối với ĐĐTN ở Hà Nội hiện nay.

6. Ý nghĩa thực tiễn của luận án

Kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy các môn học như: triết học, tôn giáo học, văn hóa học, đạo đức học, lịch sử tư tưởng Việt Nam, Phật giáo Việt Nam… ở các cơ sở nghiên cứu và đào tạo thuộc khối ngành khoa học xã hội và nhân văn cũng như các cơ sở đào tạo của Phật giáo Việt Nam.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung của luận án gồm 4 chương, 12 tiết.

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến triết lý nhân sinh, triết lý nhân sinh Phật giáo và Phật giáo ở Hà Nội

1.1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến triết lý nhân sinh và triết lý nhân sinh Phật giáo

* Các tài liệu gốc về Phật giáo

Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã nghiên cứu các tài liệu kinh điển Phật giáo để làm rõ nội dung triết lý nhân sinh Phật giáo và kế thừa những minh chứng cho các luận điểm trong luận án. Trong đó tập trung vào một số kinh điển sau: Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, Bát Nhã Tâm Kinh, Kinh Trường A Hàm, Kinh Tỳ Khiêu Na Tiên, Kinh Tương Ưng, Kinh Trường Bộ, Kinh Tiểu Bộ, Kinh Tăng Chi Bộ.

* Các công trình nghiên cứu nước ngoài

Trước hết là cuốn Buddhist Philosophy: A historical analysis (1984) [187] của tác giả David J.K Kalupahana; Cuốn Lời giáo huấn của Phật đà (1999) của tác giả Walpola Rahula; Cuốn Buddhism as Philosophy: An Introduction (2007) của tác giả Mark Siderits. Stephen J.Laumakis trong cuốn An Introduction to Buddhist Philosophy (2008); Cuốn Đại cương Triết học Phật giáo (2016) của tác giả người Trung Quốc Tưởng Duy Kiều…

* Các công trình nghiên cứu trong nước

Trong bài viết Bước đầu tìm hiểu giá trị nhân sinh của Phật giáo (1998)  của tác giả Lê Văn Quán; Tác giả Thích Tâm Thiện với công trình Tìm hiểu nhân sinh quan Phật giáo (1998); Cuốn sách Triết lý nhà Phật (2013) của tác giả Đoàn Trung Còn…

Bên cạnh đó, còn có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu sâu một nội dung cụ thể trong tư tưởng triết học Phật giáo về nhân sinh: Minh Hải (2009) Tìm hiểu về thuyết vô thường, vô ngã trong giáo lý Phật giáo; Nguyễn Thị Toan trong cuốn sách Giải thoát luận Phật giáo (2010); Lê Hữu Tuấn viết bài báo Tìm hiểu học thuyết về nghiệp trong đạo Phật; Nguyễn Tiến Nghị (2016), Quan niệm về nhân quả trong triết học Phật giáo…

1.1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến Phật giáo ở Hà Nội

Những tác phẩm nghiên cứu về Phật giáo ở Việt Nam, Trần Văn Trình với bài viết “Tìm hiểu những đặc trưng của Phật giáo trong quá trình hội nhập với văn hóa Việt Nam” (1999); Cuốn Đại cương Triết học Phật giáo Việt Nam – từ khởi nguyên đến thế kỷ XIV (2002) của Giáo sư Nguyễn Hùng Hậu; Nguyễn Duy Hinh trong bài viết Mấy đặc điểm Phật giáo Việt Nam (2008); Bài viết “Một số quan điểm triết lý nhân sinh quan trong Phật giáo nhà Lý” (2010) của tác giả Thích Thông Thức trên tạp chí Nghiên cứu Phật học; Bài viết Một số đặc trưng của nhân sinh quan Phật giáo Việt Nam (2014) Nguyễn Thị Thúy Hằng. Tuy nhiên, đối với Phật giáo ở Hà Nội, đáng chú ý nhất trong nhóm này là tác phẩm Đời sống tôn giáo tín ngưỡng Thăng Long Hà Nội (2010) của tác giả Đỗ Quang Hưng.

1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đạo đức và đạo đức thanh niên ở Hà Nội

Cuốn sách Đạo đức Phật giáo với đạo đức con người Việt Nam (2006) của tác giả Đặng Thị Lan; Cuốn sách “Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay - Vấn đề và giải pháp” do Nguyễn Duy Quý chủ biên (2006); bài viết Quan niệm của C.Mác về đạo đức và ý nghĩa của nó đối với sự nghiệp xây dựng nền đạo đức mới ở Việt Nam hiện nay của tác giả Nguyễn Văn Phúc (2008); Diệp Minh Giang trong công trình Xây dựng đạo đức của thanh niên Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (2011); Tác giả Phạm Hồng Tung trong công trình nghiên cứu Thanh niên và lối sống của thanh niên Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế (2011).

1.3. Các công trình nghiên cứu liên quan đến ảnh hưởng của triết lý nhân sinh Phật giáo đối với đạo đức thanh niên ở Hà Nội

 “Năm 1997, trong sách Văn hóa Phật giáo và lối sống của người Việt ở Hà Nội và Châu thổ Bắc Bộ, tác giả Nguyễn Thị Bảy; tác giả Đặng Thị Lan trong Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Đại học Quốc gia năm 2006, Mã số QX.04.10, Phật giáo với Đạo đức của cư dân Hà Nội trong giai đoạn Đổi mới hiện nay; Nguyễn Thị Thúy Hằng trong luận án tiến sĩ về Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần cư dân đồng bằng sông Hồng hiện nay; Bài viết Ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống của người dân đô thị ở Hà Nội hiện nay (2015) của Hoàng Thu Hương; Phan Thị Lan viết bài Tác động của Phật giáo trong xây dựng lối sống của người dân tại Hà Nội (2015) trên tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 10 (148), năm 2015.

1.4. Đánh giá các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án và những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu

1.4.1. Đánh giá các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án

Thứ nhất, về mặt lý luận, các cách hiểu khác nhau về khái niệm triết lý nhân sinh sẽ ảnh hưởng lớn đến những phân tích cụ thể về nội dung của TLNSPG. Vì vậy, nội dung luận án cần phải có sự phân tích và xác định rõ nội hàm và ngoại diên của khái niệm triết lý nhân sinh và khái niệm TLNSPG trong mối quan hệ với khái niệm nhân sinh quan và nhân sinh quan Phật giáo.

Hai là, các công trình nghiên cứu về Phật giáo ở Việt Nam đã khẳng định những đặc trưng của Phật giáo qua quá trình du nhập và phát triển ở Việt Nam. Do đó, khái lược về Phật giáo ở Hà Nội cần phải dựa trên những tư tưởng Phật giáo ở Việt Nam – vốn được cải biến qua lăng kính người Việt và gắn với lịch sử phát triển của vùng đất Thăng Long – Hà Nội.

Ba là, các nghiên cứu về đạo đức và ĐĐTN ở Việt Nam đã phác hoạ một bức tranh toàn cảnh về thực trạng đạo đức xã hội hiện nay và ĐĐTN nói riêng ở nước ta. Mặc dù những đặc điểm đạo đức của thanh niên Việt Nam nói chung và thanh niên Hà Nội nói riêng có được đề cập trong một số nghiên cứu, nhưng còn chưa được cụ thể hóa, cần phải bổ sung và làm rõ hơn những đặc điểm này.

 Bốn là, về ảnh hưởng của TLNSPG đối với ĐĐTN ở Hà Nội, qua tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài, có thể thấy rằng, cho đến nay chưa có nghiên cứu trực tiếp về nội dung “ảnh hưởng của TLNSPG đối với ĐĐTN ở Hà Nội”. Nếu có đề cập đến thì thường chỉ với hàm lượng hạn chế, được trình bày xen kẽ, sơ lược trong một nghiên cứu chung. Vì thế, đây vẫn là một nội dung cần phải tiếp tục nghiên cứu một cách tổng thể, sâu sắc hơn các bình diện về phương thức, mức độ, nội dung ảnh hưởng…

1.4.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu

Thứ nhất, về lý luận, cần xác định khái niệm triết lý nhân sinh và TLNSPG, trên cơ sở đó phân tích nội dung TLNSPG và những đặc trưng của TLNSPG ở Việt Nam cũng như khái lược về Phật giáo ở Hà Nội; làm rõ khái niệm và cấu trúc của đạo đức. Ngoài ra, những đặc điểm đạo đức của thanh niên ở Hà Nội hiện nay cũng là một nội dung rất quan trọng mà luận án phải triển khai. 

Thứ hai, nghiên cứu thực trạng ảnh hưởng của TLNSPG đến ĐĐTN ở Hà Nội, trên cơ sở lý luận đã phân tích, cần phải điều tra khảo sát thực tế thông qua phát phiếu điều tra và phỏng vấn sâu đối với thanh niên trên địa bàn Hà Nội. Trong đó theo Luật thanh niên, các đối tượng nghiên cứu có độ tuổi từ 16-30 tuổi, được chia ra làm hai nhóm: thanh niên Phật tử và thanh niên không phải Phật tử.

Thứ ba, trên cơ sở thực trạng và các vấn đề đặt ra, căn cứ vào đặc điểm ĐĐTN ở Hà Nội và bối cảnh hiện nay về kinh tế, văn hóa, xã hội của thủ đô, chúng tôi đặt ra nhiệm vụ là đưa ra một số khuyến nghị về giải pháp nhằm góp phần phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của TLNSPG đối với ĐĐTN ở Hà Nội hiện nay.

Chương 2: TRIẾT LÝ NHÂN SINH PHẬT GIÁO VÀ ĐẠO ĐỨC THANH NIÊN Ở HN – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

2.1. Triết lý nhân sinh Phật giáo và đặc điểm triết lý nhân sinh Phật giáo ở Việt Nam

2.1.1. Khái niệm triết lý nhân sinh Phật giáo

 TLNSPG là những nguyên lý nền tảng của triết học PG về con người và đời người hướng đến giải đáp những vấn đề về bản chất, quy luật, mục đích của cuộc đời con người và cách thức giải thoát con người khỏi nỗi khổ cuộc đời.

2.1.2. Nội dung cơ bản của triết lý nhân sinh Phật giáo

* Triết lý vô thường, vô ngã - bản chất sự tồn tại người và nhân sinh

PG coi toàn bộ cuộc đời của con người là vô thường, là một dòng chảy liên tục, không ngừng từ quá khứ đến hiện tại và tương lai. Vì không có cái tôi thường định nên không tồn tại cái ngã cá nhân bất biến tức là vô ngã. 

* Triết lý nhân quả, nghiệp báo - quy luật tất yếu và phổ biến của nhân sinh

Khác với các tôn giáo khác, ngay từ đầu, PG đã không thừa nhận vai trò sáng thế của một đấng tối cao nào. Trong quy luật nhân quả, PG đưa ra ba phạm trù là nhân, duyên và quả có mối liên hệ mật thiết và chuyển hóa lẫn nhau. Trên cơ sở đó, PG chỉ ra Thập nhị nhân duyên - mười hai nguyên nhân dẫn đến nỗi khổ của con người trong các kiếp quá khứ, hiện tại, tương lai. Đây là chính là tiến trình luân hồi sinh tử của con người do nghiệp mà họ đã tạo nên và nhận lại. Mười hai nhân duyên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và quy định lẫn nhau trong tiến trình hình thành Nghiệp báo của mỗi người.

* Triết lý về sự khổ - hiện thực của nhân sinh

Phật đã từng nói: nước của bốn biển không nhiều bằng nước mắt của chúng sinh. Toàn bộ bể khổ của đời người được PG tổng kết, quy lại thành nhiều nỗi khổ khác nhau, song tiêu biểu nhất là “bát khổ” (tám khổ); sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly, oán tăng hội, sở cầu bất đắc, thủ ngũ uẩn. Khổ đau là vô tận và tuyệt đối với con người. Tuy nhiên theo Phật giáo, dẫu con người khổ nhưng cái khổ đó có thể được chấm dứt.

* Triết lý về sự giải thoát – mục đích tối thượng của nhân sinh

Từ khẳng định cái khổ có thể tiêu diệt được, PG đưa ra Đạo đế - con đường giải thoát sự khổ mà thực chất chính là tiêu diệt vô minh. Phương pháp diệt khổ, đạt đến giải thoát, đạt đến Niết Bàn là Bát Chính Đạo, kết hợp cả tu dưỡng ĐĐ, trí tuệ và niềm tin (tam học: Giới - Định - Tuệ). Theo đó con người trước hết quay trở vào bên trong chính tâm thức của mình để diệt trừ được vô minh làm bừng sáng trí tuệ vốn có và được giải thoát, nhập vào Niết bàn. Bát chính đạo là tám con đường chân chính hay tám phương cách thực hành giúp con người đạt đến thành tựu giải thoát.

2.1.3. Đặc trưng của triết lý nhân sinh Phật giáo ở Việt Nam

Một là tư tưởng PG Đại thừa chiếm ưu thế trong TLNSPG ở VN

Triết lý nhân sinh của PG Đại thừa nổi bật lên tinh thần từ bi, hướng đến vì tha nhân, hành đạo cứu đời đang chìm ngập trong nỗi khổ. Có lẽ bởi vì đặc điểm này nên trong tâm thức của người Việt, PG được gọi là đạo Từ Bi, đạo cứu khổ cứu nạn và người VN nhất là Phật tử cũng thường thực thiện hành vi bố thí trong đời sống ĐĐ của mình.

Thứ hai, TLNPG VN mang tính nhập thế tích cực gắn bó với chủ nghĩa yêu nước

Triết lý nhân sinh nhập thế tích cực của PG VN đã gắn Đạo với Đời thành một khối thống nhất, có sự thẩm thấu, tương hỗ lẫn nhau. Đây là mối quan hệ song trùng, tương đồng, PG mang đến cho truyền thống dân tộc màu sắc mới, nâng tầm trí tuệ VN; ngược lại, tinh thần Việt lại khiến cho PG ở VN khác với PG ở nhiều quốc gia chịu ảnh hưởng của PG khác.

Ba là, TLNSPG có sự dung hòa với các hệ thống tư tưởng nội sinh và Nho - Lão ở VN

PG khi vào VN kết hợp với tư duy linh hoạt vốn có đó của người Việt đã tạo nên triết lý nhân sinh PG độc đáo, có sự hòa quyện với các tư tưởng tồn taị trong lịch sử dân tộc Việt.

TLNSPG thể hiện sự dung hòa với những tư tưởng nội sinh.

TLNSPG cũng thể hiện sự dung hòa với tư tưởng của Nho, Lão.

Bốn là, TLNSPG VN thể hiện đa dạng trong hai hình thái PG dân gian và PG bác học

Đặc trưng của PGVN là sự tồn tại của hai dòng PG dân gian và PG bác học xuất phát từ hai con đường PG đi vào tâm thức người Việt. Dẫu triết lý nhân sinh PG ở VN tồn tại với hai sắc thái, nhưng giữa chúng vẫn có điểm chung. Đó là những nội dung căn bản của TLNSPG về vô ngã vô thường, về nhân quả, nghiệp báo, luân hồi, về nỗi khổ cuộc đời và sự thoát khổ vẫn được truyền tải đến người dân VN. Về cơ bản, PG VN nặng về tình cảm hơn giáo lý.

2.2. Khái quát về Phật giáo ở Hà Nội

2.2.1. Quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo ở HN

Từ khi Thăng Long trở thành kinh đô của nước Đại Việt (năm 1010) đã đặt nền móng vững chắc để PG hiện diện ở khắp mọi lĩnh vực chính trị, xã hội và văn hóa ở vùng đất HN ngày nay. Qua những suy biến của thế sự, PG trên đất Thăng Long – HN cũng trải nhiều bước thăng trầm song hiện nay vẫn là một trung tâm PG quan trọng bậc nhất của PG VN. Người dân Thăng Long – HN suốt hơn 1000 năm qua đã tiếp nhận triết lý nhân sinh của PG, đưa triết lý nhân sinh PG trở thành một phần máu thịt trong thế giới quan, nhân sinh quan của người HN, góp phần tạo nên cốt cách người HN - “dẫu không thanh lịch, cũng người Tràng An”. 

2.2.2. Một số đặc điểm của Phật giáo ở HN

Một là, HN là một trung tâm có bề dày lịch sử nghìn năm của PG VN

Từ xưa đến nay, Thăng Long - HN luôn là nơi tụ hội của các tầng lớp nhân sỹ, trí thức bởi vị thế là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa của đất nước. Đây cũng là trung tâm hoằng đạo, nhập thế cứu đời, thể hiện trọn vẹn tinh thần hòa quang đồng trần, triết lý hành động của PG VN. Hơn nữa, trong suốt lịch sử phát triển của Thăng Long – HN nhiều công trình kiến trúc PG quan trọng được xây dựng ở nơi đây vẫn còn tồn tại và phát triển cho đến nay như: Chùa Trấn Quốc, Chùa Phúc Khánh, Chùa Kim Liên, Chùa Diên Hựu, Chùa Sùng Khánh…

Hai là, HN là cái nôi nuôi dưỡng và phát triển truyền thống nhập thế của PG VN.

PG ở VN vốn có truyền thống nhập thế, nhưng qua những cứ liệu lịch sử, đặc biệt là sự nhập thế của PG từ thời Lý Trần cho đến nay, có thể thấy rằng, HN là nơi khởi nguồn, là trung tâm lan tỏa  của truyền thống nhập thế tích cực. Tiêu biểu nhất cho truyền thống nhập thế là sự đồng hành với dân tộc cùng truyền thống “hộ quốc an dân” của PG mà trước hết là ở kinh thành Thăng Long thời kỳ phong kiến. Hiện nay, đại đa số tăng ni, Phật tử Thủ đô đều tích cực tham gia các hoạt động vì cộng đồng bẳng cả những hỗ trợ về vật chất và tinh thần.

Ba là, về tư tưởng, PG ở HN là tấm gương phản chiếu TLNSPG VN tiêu biểu nhất

Đó là tư tưởng đại thừa PG với mục tiêu hướng đến giải thoát cho mọi người khỏi nỗi đau khổ, với tư tưởng Phật tại Tâm, với tinh thần đại trí tuệ và đại  từ bi. Thêm vào đó là tính nhập thế tích cực với những giá trị đã được ghi nhận đối với đời sống và con người VN, đặc biệt là tính nhập thế chủ động đến từ phía thượng tầng kiến trúc, từ trong triều đình phong kiến ở Kinh đô Thăng Long đã lan tỏa xuống và tác động mạnh mẽ đến toàn bộ tinh thần của dân chúng ở kinh đô trong quá trình bảo vệ độc lập dân tộc. Ngoài ra, vai trò là một trung tâm kinh tế, chính trị văn hóa hàng đầu của cả nước, nhất là sự phát triển về thương nghiệp và thủ công nghiệp ở kinh thành Thăng Long càng thúc đẩy tính linh hoạt và tính dung hòa trong tư duy của người dân đô thành HN, từ đó làm đậm nét hơn tính dung hợp và cởi mở của TLNSPG ở vùng đất này cho đến nay.

2.3. Khái quát về đạo đức thanh niên ở HN

2.3.1. Đạo đức và đạo đức thanh niên

* Khái niệm và cấu trúc ĐĐ

Kế thừa kết quả của các công trình khoa học đã được công bố, chúng tôi thống nhất quan niệm: ĐĐ là hệ thống các giá trị chuẩn mực, nguyên tắc, quy tắc về thiện – ác, chính nghĩa – phi nghĩa… được một cộng đồng người nhất định thừa nhận và tự nguyện tuân thủ bằng niềm tin, tình cảm và ý chí của họ; điều chỉnh nhận thức và hành vi của cá nhân hay cộng đồng đó.

Trong phạm vi luận án, để phân tích ĐĐTN HN, chúng tôi lựa chọn tiếp cận cấu trúc của ĐĐ với tính cách là một hệ thống bao gồm các yếu tố cơ bản là ý thức ĐĐ, hành vi ĐĐ.

* Khái niệm và cấu trúc của ĐĐTN

TN là nhóm nhân khẩu - xã hội ở độ tuổi từ 16 đến 30, hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, có vai trò quan trọng đối với xã hội hiện tại và quyết định sự phát triển của xã hội tương lai.

Trên cơ sở đó có thể hiểu ĐĐTN như sau:  ĐĐTN là hệ thống các giá trị chuẩn mực, nguyên tắc, quy tắc về thiện – ác, chính nghĩa – phi nghĩa…; được TN thừa nhận và tự nguyện tuân thủ bằng niềm tin, tình cảm và ý chí của họ; điều chỉnh nhận thức và hành vi của họ trong cộng đồng.

Trong khuôn khổ luận án, như đã phân tích về cấu trúc ĐĐ, chúng tôi xét cấu trúc ĐĐTN gồm ý thức ĐĐ TN và hành vi ĐĐ TN.

2.3.2. Đặc trưng của đạo đức thanh niên ở HN hiện nay

Một là, ĐĐ của TN ở HN hiện nay dựa trên cơ sở lý tưởng ĐĐ con người xã hội chủ nghĩa. Là một bộ phận của ĐĐ xã hội, ĐĐTN ở HN phản ánh những giá trị và chuẩn mực ĐĐ xã hội hiện nay, đó là những chuẩn mực nguyên tắc của ĐĐ cộng sản, giữ vai trò định hướng xuyên suốt đời sống ĐĐTN. Đó là: 1. Có lý tưởng cách mạng; 2. Bản lĩnh vững vàng; 3. Giàu lòng yêu nước; 4. ĐĐ trong sáng; 5. Lối sống văn hóa; 6. Tuân thủ pháp luật; 7 Tiên phong hành động; 8. Sáng tạo không ngừng; 9. Học tập liên tục; 10. Có sức khỏe tốt; 11. Kỹ năng phù hợp; 12. Khát vọng vươn lên.

 Hai là, ĐĐTN ở HN có sự thống nhất hữu cơ giữa tính hiện đại và tính truyền thống. Một mặt, cùng với quá trình phát triển của đất nước, của thủ đô ngày nay, những giá trị ĐĐ của xã hội mới đã và đang hình thành ở thế hệ trẻ. Trong đó, tính hiện đại của ĐĐ ngày nay gắn liền với những giá trị ĐĐ của nhân loại trong thế kỷ XX và XXI gắn liền với khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Đó là những giá trị ĐĐ khoa học, ĐĐ sinh thái, ĐĐ nghề nghiệp… đang góp phần làm nên tính hiện đại trong ĐĐTN ở HN hiện nay. Mặt khác, thủ đô HN có một bề dày lịch sử, đi cùng với đó là một nền tảng văn hóa, ĐĐ truyền thống vững chắc gắn với những giá trị ĐĐ Nho giáo – Phật giáo.

Ba là, ĐĐTN ở HN có tính động cao. Tính trẻ, năng động là một trong những đặc trưng chung của TN ở tất cả các quốc gia – dân tộc nhưng với vị trí của một trung tâm đầu não các hoạt động của đất nước như HN thì tính động của ĐĐTN ở HN còn ở mức độ rất cao, cần có sự định hướng đúng đắn từ phía các cơ quan Đảng, Chính quyền thành phố HN, Đoàn thể và sự hợp tác chặt chẽ giữa gia đình – nhà trường – xã hội.

Chương 3: ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT LÝ NHÂN SINH PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI ĐẠO ĐỨC THANH NIÊN Ở HÀ NỘI HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

3.1. Bối cảnh, phương thức và mức độ ảnh hưởng của triết lý nhân sinh Phật giáo đến đạo đức thanh niên ở HN

3.1.1. Bối cảnh tác động của triết lý nhân sinh Phật giáo đến đạo đức thanh niên ở HN hiện nay

Về kinh tế - xã hội, từ khi tiến hành Đổi mới cho đến nay, đời sống vật chất và văn hoá tinh thần của người dân không ngừng được cải thiện. Tuy nhiên, cùng với sự tham gia ngày càng sâu rộng của đất nước vào nền kinh tế thế giới, sức ép của sự phát triển đối với lớp người trẻ tuổi càng gia tăng khiến cho trong xã hội ngày nay, nhiều người trẻ vẫn cần đến tôn giáo trong đó có PG để làm chỗ dựa tinh thần

Về chính trị, Đảng ta đã nhận thức và xác định rất rõ rằng tôn giáo là một hiện tượng có tính lịch sử tồn tại khách quan và trong công tác tôn giáo phải nhất quán tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân, đoàn kết giữa các tôn giáo.

Về văn hóa – xã hội, sự lan tỏa mạnh mẽ của những giá trị văn hóa, ĐĐ Tây phương vào nước ta cũng đang  làm thay đổi tư duy, tác phong của thế hệ TN ngày nay. Trong bối cảnh phức tạp này, những giá trị của PG là một trợ lực giúp điều chỉnh thực trạng ĐĐ xuống cấp ở cư dân HN nhất là trong giới trẻ.

Tóm lại, trong bối cảnh hiện nay, với những nền tảng sẵn có trong nền văn hóa, tư tưởng truyền thống của dân tộc, với xu hướng phát triển của PG với tư cách là một tôn giáo, TLNSPG có điều kiện thuận lợi để tiếp tục phát huy ảnh hưởng đến ĐĐ của thế hệ TN ở thủ đô HN hiện nay.

3.1.2. Phương thức ảnh hưởng của TLNSPG đến ĐĐTN ở HN

Ảnh hưởng của TLNSPG đến ĐĐ của TN ở HN thông qua nhiều phương thức khác nhau, trong đó có cả yếu tố khách quan và chủ quan. Các phương thức chủ yếu để TN ở HN tiếp nhận TLNSPG lần lượt theo thứ tự là: thông qua nếp sống và phong tục của gia đình; thông qua các phương tiện thông tin đại chúng (sách , báo, TV, đài, mạng xã hội…); thông qua sự trao đổi, giảng giải của bạn bè, đồng nghiệp; từ các sinh PG của giáo hội PG và các tổ chức PG ở HN (khóa tu, giảng đạo, từ thiện..); từ sự tự nghiên cứu, chiêm nghiệm của bản thân; thông qua các phong trào hoạt động của các tổ chức đoàn thể khác như đoàn TN, Hội học sinh sinh viên,..; cuối cùng là từ đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về văn hóa và tôn giáo.

3.1.3. Mức độ tác động của TLNSPG đối với ĐĐTN ở HN hiện nay

Về cơ bản, những tư tưởng triết lý cao siêu của PG hiện nay vẫn chủ yếu trong phạm vi giới tăng sĩ, giới trí thức PG nối tiếp dòng PG bác học xưa kia – tất nhiên trong đó có một bộ phận là tăng sĩ, trí thức TN. Còn phần lớn TN tiếp nhận PG theo con đường dân gian, với hệ thống tư tưởng và ngôn ngữ dung dị, gần gũi với cuộc sống hàng ngày.Nói cách khác, nhìn chung, những tư tưởng PG dân gian với TLNSPG ở nội dung nguyên lý ở dạng rút gọn giản đơn hơn và được diễn đạt thông qua những ngôn ngữ bình dị, quen thuộc, gần gũi với đời sống thường nhật có vai trò chiếm ưu thế trong các tác động đến ĐĐTN ở HN.

3.2. Ảnh hưởng tích cực của triết lý nhân sinh Phật giáo đến đạo đức thanh niên ở HN hiện nay

3.2.1. TLNSPG góp phần hình thành ý thức ĐĐ ở TN HN

3.2.1.1. Triết lý PG góp phần định hướng các giá trị, chuẩn mực ĐĐ cho TN ở HN

Trên cơ sở tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí ĐĐ mà lý tưởng ĐĐ của người TN được xây dựng, thể hiện trong những giá trị, chuẩn mực ĐĐ và hình mẫu lý tưởng. Mẫu người lý tưởng mà PG chỉ ra, là những người có lòng nhân ái khoan dung, có trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội, luôn tự trau dồi bản thân và hài hòa không chấp trách. Hình mẫu này có nhiều điểm tương đồng với hình mẫu con người toàn diện mà Đảng ta đã đưa ra. Vì vậy, trong mối quan hệ với lý tưởng ĐĐ xã hội chủ nghĩa, TLNSPG đóng vai trò hỗ trợ, góp phần xây dựng những giá trị, chuẩn mực ĐĐ con người mới trong TN ở HN hiện nay.

3.2.1.2. Triết lý PG góp phần xác định nghĩa vụ, trách nhiệm ĐĐ cho TN ở HN hiện nay

TLNSPG có vai trò thúc đẩy TN nhận thức và hành động theo những nghĩa vụ và trách nhiệm ĐĐ, đem lại cho TN động lực bên trong để tự chịu trách nhiệm về lối sống của mình, phát huy một cách tự giác phẩm giá nhân văn – nhân đạo của mình trong quan hệ với cộng đồng, tập thể trong đời sống xã hội.

3.2.2. TLNSPG góp phần điều chỉnh hành vi ĐĐ của TN ở HN

3.2.2.1 TLNSPG góp phần khuyến khích TN chủ động rèn luyện, tu dưỡng hoàn thiện ĐĐ cá nhân

TLNSPG luôn đề cao trách nhiệm ĐĐ của mỗi người qua đó khẳng định tính tích cực, chủ động của TN trong việc rèn luyện, tu dưỡng, hoàn thiện ĐĐ cá nhân trong đời sống xã hội.

3.2.2.2. Triết lý PG góp phần hoàn thiện ĐĐ trong quan hệ gia đình của TN HN

Bốn giá trị quan trọng nhất (hơn 50% thanh niên tham gia khảo sát lựa chọn) về TLNSPG đã tác động đến ĐĐTN trong mối quan hệ gia đình là hiếu thảo với ông bà, cha mẹ; yêu thương đùm bọc anh chị em; đoàn kết giữa các thành viên và giữ gìn hòa khí trong gia đình. Qua đó có thể thấy, ảnh hưởng của TLNSPG lên ĐĐTN sẽ trực tiếp được thể hiện trong thực tiễn đời sống gia đình, tiêu biểu trong các mối quan hệ vợ - chồng, ông bà - cha mẹ - con cái.

3.2.2.3. Triết lý PG góp phần hoàn thiện ĐĐ trong quan hệ xã hội của TN ở HN

Thông qua sự lĩnh hội những tư tưởng PG về nhân sinh mà có hành vi ĐĐ tốt đẹp, trong đó cốt lõi là không hận thù, bỏ qua hận thù; yêu thương, hướng tới yêu thương; ân cần nhân hậu, độ lượng, quan tâm chu đáo; hướng tới lòng trắc ẩn, lòng thiện; không ác ý, ác tâm; trong đó bỏ thù hận là gốc rễ của thiện.

3.3. Ảnh hưởng tiêu cực của triết lý nhân sinh Phật giáo đến đạo đức thanh niên ở HN hiện nay và vấn đề đặt ra

3.3.1. Một số ảnh hưởng tiêu cực của triết lý nhân sinh PG đến ĐĐTN ở HN hiện nay

Một là, TLNSPG tuyệt đối hóa vai trò của ĐĐ, ít coi trọng các yếu tố vật chất hiện thực trong giải thoát con người khỏi khổ đau cuộc đời.

Hai là, thiếu sự đấu tranh triệt để đối với những hành vi bất thiện

Ba là hành vi ĐĐ mang tính mê tín dị đoan khi thực hành các nghi lễ PG.

Chính sự mặt hạn chế của một số tư tưởng PG về nhân sinh và nét tiêu cực hoạt động Phật sự ở một số cá nhân hiện nay đã và đang làm phương hại đến những giá trị nhân sinh tốt đẹp của Phật giáo, là rào cản khiến họ khó khăn hơn trong tiếp nhận TLNSPG một cách sâu sắc và đúng đắn.

3.2.2. Vấn đề đặt ra từ ảnh hưởng của TLNSPG đến ĐĐTN ở HN hiện nay

HN là nơi tập trung đông dân cư với nhiều thành phần, nhiều trình độ khác nhau cũng là khu vực có nhiều loại hình tôn giáo tín ngưỡng, đa dạng về loại hình, khuynh hướng tư tưởng. PG ở HN cũng có một bề dày lịch sử phát triển, song bên cạnh những tác động tích cực lên ĐĐTN ở HN hiện nay vẫn có những ảnh hưởng hạn chế nhất định. Từ thực trạng đã phân tích ở trên, có thể rút ra một số vấn đề đặt ra như sau:

Một là, hành vi trục lợi trong thực tiễn sinh hoạt PG hiện nay làm suy giảm niềm tin ĐĐ của TN vào những giá trị của TLNSPG.

Hai là, sự truyền bá tư tưởng PG đang diễn ra tích cực song còn nhiều hoạt động mang tính tự phát.

Ba là, sự hợp tác giữa các cơ quan Đảng, chính quyền, Đoàn thể và các tổ chức chính trị - xã hội với GHPGHN chưa thật sự hiệu quả trong định hướng giá trị ĐĐTN.

Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC, HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA TRIẾT LÝ NHÂN SINH PHẬT GIÁO ĐẾN ĐẠO ĐỨC THANH NIÊN Ở HÀ NỘI HIỆN NAY

4.1. Quan điểm nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của TLNSPG đối với ĐĐTN ở HN hiện nay

4.1.1 Nhất quán với các nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh

Muốn phát huy được những giá trị tốt đẹp của PG trong đời sống ĐĐ của TN thì một mặt, trong mối quan hệ với đồng bào có đạo cần phải giữ vững những quan điểm, nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng được nêu ra trong chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; mặt khác cần tiếp tục phát huy vai trò của Đảng và Nhà nước trong việc giải quyết những tệ nạn xã hội, xử lý nghiêm minh các trường hợp cán bộ, công chức lộng quyền và lạm quyền gây mất uy tín của Đảng và Nhà nước, giảm niềm tin trong quần chúng nhân dân lương và giáo.

4.1.2. Gắn với mục tiêu xây dựng nền ĐĐ mới, văn hóa mới, con người mới của Đảng và Nhà nước ta

Nghị quyết 25-NQ/TW, Đảng Cộng sản VN khẳng định những điểm “tương đồng” giữa lý tưởng của tôn giáo với mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa: “Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với mục tiêu chung”. Đây là những luận điểm có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về việc khai thác, phát huy những giá trị tốt đẹp trong văn hóa, ĐĐ của các tôn giáo với mục tiêu xây dựng xã hội mới ở nước ta.

4.1.3. Tạo điều kiện để các phương thức truyền tải TLNSPG phát huy tính tích cực trong việc tác động đến ĐĐTN ở HN hiện nay

Đây là quan điểm cơ bản gợi mở cho những khuyến nghị ở phần sau, nhất là đối với nhà nước với tư cách là chủ thể xây dựng ban hành và thực thi chính sách và với Giáo hội PG VN với tư cách là tổ chức của các tín đồ Phật tử.

4.2. Một số giải pháp nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của TLNSPG đối với ĐĐTN ở HN hiện nay

4.2.1. Tuyên truyền giáo dục làm đổi mới nhận thức cho TN ở HN về  vai trò của PG đối với đời sống xã hội ở VN

Muốn có chính sách đúng đắn về tôn giáo, điều trước tiên là phải thay đổi cách nhận thức về nó. Cho nên, tăng cường tuyên truyền giáo dục để không chỉ đồng bào không có đạo mà cả người có đạo hiểu rõ và nhận thức đúng về vai trò của PG đối với ĐĐ xã hội là điều cần thiết trong đó một số nội dung cần chú trọng là:

Một là, về mối quan hệ giữa PG và sự phát triển dân tộc VN, những đặc điểm riêng có của PG ở VN mà HN là một trong những trung tâm lớn thể hiện rõ nét đặc thù này. Hai là, TN ở HN hiện nay cần được nâng cao nhận thức về sự tồn tại tất yếu của tôn giáo nói chung. Ba là, TN cần nhận thức đúng về mối quan hệ giữa tôn giáo và chủ nghĩa xã hội để từ đó khẳng định tôn chỉ nhất quán mà PG VN đã đề ra về Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội.

Về phương pháp, cần phải sử dụng đồng bộ những phương pháp như: Phương pháp giáo dục (tuyên truyền, giác ngộ, nêu gương); phương pháp tổ chức (đưa vào khuôn khổ, nề nếp); phương pháp kinh tế (khuyến khích bằng lợi ích vật chất); phương pháp hành chính (mệnh lệnh, buộc thực hiện).

4.2.2. Hoàn thiện chính sách, pháp luật và xây dựng cơ chế phát huy những giá trị tốt đẹp của TLNSPG đến ĐĐTN ở HN

Một là là cần rà soát lại toàn bộ các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành có liên quan đến vấn đề tôn giáo và TN. Qua đó chỉnh sửa hoặc xóa bỏ những quy định, văn bản hướng dẫn thi hành chưa phù hợp. Hai là, tiếp tục nghiên cứu, xây dựng và bổ sung các quy định mới cho phù hợp với chính sách của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng tôn giáo. Ba là, bổ sung hoàn thiện các quy định về việc in ấn, xuất bản, việc tổ chức các lễ hội, việc cưới, việc tang, việc cúng bái ở các cơ sở thờ tự… Bốn là, cần có quy định cụ thể về trách nhiệm, nghĩa vụ của chức sắc, nhà tu hành tôn giáo trong quá trình tham gia các hoạt động văn hóa, xã hội. Năm là, cần xác định rõ giới hạn của các tổ chức tôn giáo khi các tổ chức này tham gia vào sự nghiệp giáo dục, đào tạo theo quy định pháp luật. Ngoài ra, phải vạch rõ khung pháp lý để xử lý những hoạt động vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo hay lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo.

4.2.3. Tăng cường sự hợp tác, phối hợp giữa giáo hội PG với các cơ quan Đảng, chính quyền, Đoàn thể và các tổ chức chính trị xã hội khác trên địa bàn HN

Về phía PG, trước hết, Giáo hội PG và Ban trị sự PG HN cần soạn thảo và đưa ra các chương trình hành động cụ thể khuyến khích, động viên và hướng dẫn tăng ni, tín đồ hành đạo đúng phương châm: “Đạo pháp - Dân tộc và Chủ nghĩa xã hội”. Giáo hội PG và ban trị sự PG HN cần kết hợp chặt chẽ với các cấp chính quyền, đoàn thể xã hội và các tổ chức trong và ngoài vùng trong các hoạt động hoằng pháp vào các ngày lễ lớn của PG và trong các công tác Phật sự khác như từ thiện, cứu tế nhằm phát huy truyền thống tốt đẹp của PG cũng như tránh lãng phí, phô trương, đảm bảo tinh thần Phật pháp nhưng vẫn tôn trọng phần tín ngưỡng và không tín ngưỡng của các TN trên địa bàn thủ đô.

Về phía các cơ quan Đảng, Chính quyền thành phố HN, tăng cường vai trò của Đảng, Nhà nước và Chính quyền các cấp trên địa bàn HN. Đối với công tác tôn giáo, Đảng và chính quyền các cấp thành phố HN cần ưu tiên chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo. Đối với tổ chức GHPG, các cơ quan quản lý Nhà nước cần kết hợp với Giáo hội PG để tổ chức các hoạt động tôn giáo phù hợp, vừa đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng của TN ở HN hiện nay mà trước hết là TN PG,

Về phía Đoàn thể và các tổ chức chính trị - xã hội khác, nâng cao vai trò của các đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn HN. Để có thể phát huy những giá trị tốt đẹp  trong PG, hạn chế những tác động tiêu cực của nó đối với ĐĐTN thì cần củng cố, xây dựng các tổ chức đoàn thể xã hội trong đó chú trọng những tổ chức gắn bó trực tiếp với TN ở HN hiện nay như Đoàn TN, Hội liên hiệp TN, Hội học sinh – sinh viên.v.v. nhất là ở các vùng tập trung đông đồng bào PG.

4.2.4. Nâng cao hiệu quả của truyền thông PG và xã hội cho TN về PG

Về truyền thông xã hội, Một là, đưa giáo dục PG trở thành một bộ phận của nền giáo dục quốc dân. Hai là, trong điều kiện phát triển kinh tế ở thủ đô, nhiều gia đình đã gửi các em tham dự các lớp học do các cơ sở thờ tự hay thực hành PG đứng ra tổ chức. Ba là, trong công tác truyền thông PG,  cần chú trọng việc tuyên truyền giáo dục cho từng đối tượng TN với nội dung, hình thức và biện pháp cụ thể phù hợp. Bốn là, GHPGHN cần lập ra một ban chuyên trách công tác rà soát và chuẩn hóa các thông tin liên quan PG trên mặt trận truyền thông trên mạng internet, thường xuyên cập nhật và phản hồi kịp thời những thắc mắc hay phản ánh của TN nói riêng và nhân dân trên địa bàn HN nói chung.

Về truyền thông phía tôn giáo nói chung và PG nói riêng, với tư cách là một nhu cầu chính đáng của TN hiện nay, cần sớm có kênh truyền hình tôn giáo để giúp truyền tải những thông tin chính thống đến xã hội, đưa ra những nguồn tư liệu chính thống, trang web tin cậy, cảnh báo những nguồn thông tin sai lệch, hướng dẫn tu tập đúng cách.

4.2.5. Nâng cao vai trò của đội ngũ chức sắc, tăng ni, Phật tử trong việc truyền bá những giá trị tích cực của triết lý NSPG đến TN HN

Đối với chức sắc, tăng ni PG, trong công tác truyền đạo, với vai trò là những người trực tiếp truyền tải triết lý, tư tưởng của PG đến thế hệ trẻ trên địa bàn HN, các tăng ni chức sắc cần chủ động nắm bắt các vấn đề nổi cộm chung của xã hội, những tâm tư, nguyện vọng của TN tín đồ ở đạo tràng, đưa những nội dung này vào trong những bài thuyết giảng, đem lại cho tín đồ cái nhìn sâu sắc, đúng đắn và đưa ra cách thức hóa giải trên tinh thần Phật pháp. Thứ nữa, các vị tăng ni, chức sắc cần liên tục đổi mới phương pháp truyền tải, tăng cường tính hiện đại, sử dụng công cụ kỹ thuật và mạng internet để phục vụ cho công tác giảng đạo có hiệu quả mạnh mẽ và rộng rãi hơn.

Đối với TN Phật tử, với tư cách là một người có đạo, cần phát huy tinh thần tự tu tập, tự rèn luyện theo những giới luật PG đã đề ra, thấm nhuần hơn những giá trị của các triết lý PG trong đời sống hiện thực. Từ đó xây dựng cho mình những chuẩn mực ĐĐ, lý tưởng ĐĐ xác định, kiên trì giữ đạo, có bản lĩnh trước những cám dỗ của Tam độc: Tham – sân – si khi bước vào cuộc sống. Đồng thời, tham gia tích cực hơn nữa vào các hoạt động, phong trào mà Giáo hội và Ban trị sự PG thành phố HN tổ chức.

KẾT LUẬN

Hơn 2500 năm qua, PG đã khẳng định được vai trò của mình với tư cách một tôn giáo thế giới với lượng tín đồ đông đảo. Bên cạnh đó, PG còn là một hệ thống triết học với những tư tưởng sâu sắc, vượt thời đại và còn nhiều giá trị đối với cuộc sống của xã hội ngày nay. Ở trình độ triết học, TLNSPG chính là quan niệm chung nhất của PG về con người, đời người, giải thoát con người, định hướng cho con người nhận thức và hành động trong thực tiễn. Hiểu theo nghĩa này, nội dung TLNSPG bao gồm triết lý vô thường, vô ngã với tư cách là bản chất tồn tại của nhân sinh; triết lý nhân quả - nghiệp báo với tư cách là quy luật tuyệt đối của nhân sinh; triết lý về nỗi khổ với tư cách là hiện thực của nhân sinh và triết lý giải thoát với tư cách là đích cuối cùng của nhân sinh. Về hình thức, triết lý nhân sinh có thể được thể hiện thông qua nhiều cách thức khác nhau từ biểu tượng, âm nhạc, thơ ca hay trong những văn bản có dung lượng lớn. Cho dù được thể hiện dưới hình thức nào thì giá trị nhân văn, bình đẳng, từ bi, vô ngã, vị tha của TLNSPG với lý tưởng giáo dục ĐĐ, hướng thiện cho con người vẫn còn ý nghĩa lớn lao đối với đời sống xã hội hiện đại.

Khi du nhập vào VN, PG trên tinh thần từ bi, khoan dung và hòa hợp đã tìm ra con đường rất riêng biệt – con đường bản địa hóa để đi vào trong đời sống người Việt. Hiếm có ở một quốc gia nào trên thế giới, cùng một tư tưởng nhưng được hiểu ở những lớp nghĩa với độ nông sâu khác nhau ứng với hai hình thái PG bác học và PG dân gian như ở VN. Sau này sự tồn tại của hai trình độ tư tưởng đó gắn liền với hai tư cách hiện tồn của PG trong xã hội VN ngày nay. Một là tư cách một bộ phận của văn hóa VN truyền thống với những tư tưởng gần gũi, giản đơn của PG dân gian và hai là tư cách một tôn giáo với tư tưởng có tính hàn lâm, đi vào tầng sâu tư tưởng PG. TLNSPG khi vào VN đã hòa nhập với đời sống văn hóa, tín ngưỡng bản địa, chi phối nhiều hoạt động của quần chúng nhân dân, hình thành nên TLNSPG VN. Điều này tương ứng với sự đa dạng về trình độ nhận thức và phù hợp tình cảm và tâm lý của người VN. Đây cũng chính là một nguyên nhân quan trọng làm nên sức sống vững bền của TLNSPG và sự ảnh hưởng tất yếu của những tư tưởng này đối với con người VN nói chung và TN nói riêng ngày nay.   

Thăng Long – HN là vùng đất cổ, có nguồn gốc từ ngôi làng Hương Long Đỗ nơi núi Nùng sông Tô hội tụ. Trong buổi đầu PG du nhập vào VN thì những tư tưởng PG cũng đã lan tỏa dần khắp các vùng đồng bằng sông Hồng khiến vùng đất Đại La Thành cũng dần trở thành một điểm đến của PG. Đến năm 1010 khi chính thức trở thành kinh đô nước Đại Việt, mở ra một thời kỳ độc lập tự chủ dài lâu của đất nước thì sự đồng hành của PG đã khắc ghi truyền thống hộ quốc an dân của PG ở VN và cũng khiến Thăng Long – HN trở thành một trong những trung tâm PG lớn nhất của cả nước. Trải qua bao biến cố, thăng trầm của lịch sử, cho đến nay, PG ở HN dẫu có lúc thịnh lúc suy song vẫn luôn gắn bó với đời sống người dân ở nơi đây và trở thành chỗ dựa trong đời sống tinh thần của họ.

Trong điều kiện chuyển đổi sang kinh tế thị trường và sự hội nhập quốc tế, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong lĩnh vực tinh thần, đời sống ĐĐ của người dân HN hiện nay cũng có nhiều thay đổi thuận nghịch đa dạng. Sự báo động về tình trạng suy thoái ĐĐ, lối sống, sự đứt gãy giá trị giữa quá khứ và hiện tại là một thực tế không thể phủ nhận yêu cầu phải huy động toàn bộ các nguồn lực để điều chỉnh. Trong bầu không khí đó, người ta tìm đến những yếu tố của quá khứ để khẳng định cái hiện tại, và PG - một trong những chiếc chìa khóa của sự phát triển dân tộc trong quá khứ lại tiếp tục phát huy những giá trị của nó trong hiện tại. Đối với TN ở HN hiện nay, PG đã góp phần định hướng các giá trị, chuẩn mực ĐĐ, giúp TN xác định nghĩa vụ trách nhiệm ĐĐ của mình đồng thời điều chỉnh hành vi ĐĐ, hướng thiện các hành vi ĐĐ của TN ngay từ trong thực tiễn đời sống ĐĐ hàng ngày. Tất nhiên, ra đời vào khoảng thế kỷ VI (TCN) thì trong hệ thống tư tưởng nhân sinh PG cũng còn có những hạn chế lịch sử nhất định và trong một chừng mực đã có tác động tiêu cực đến ĐĐTN ở HN hiện nay. Vì vậy, vấn đề đặt ra là, làm thế nào để phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của PG đến ĐĐTN ở HN trong bối cảnh hiện nay.

 Từ thực trạng ảnh hưởng của TLNSPG đối với ĐĐTN ở HN hiện nay, luận án đã đưa ra 3 quan điểm và 5 nhóm giải pháp theo hướng phát huy hiệu quả của các phương thức truyền bá TLNSPG cho TN; nâng cao nhận thức về tôn giáo và PG cho TN ở HN; phát huy vai trò của các cơ quan Đảng, chính quyền, Đoàn thể và các tổ chức chính trị - xã hội khác trên địa bàn HN; hoàn thiện chính sách pháp luật và cơ chế cho sự phát huy các giá trị tốt đẹp của TLNSPG; đặc biệt là, để những giá trị tư tưởng nhân sinh của PG phát huy được thì giải pháp quan trọng nhất phải đến từ bản thân PG (Giáo hội, chức sắc, tăng ni, Phật tử).