Sáng kiến kinh nghiệm rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1

Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.24 KB, 6 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 1

I.Phần 1: Đặt vấn đề.
Trong các môn học qui định hiện nay thì phân môn Tập đọc là phân môn có
tính tổng hợp. Phân môn tập đọc không những dạy học sinh biết đọc, còn giúp
học sinh có kiến thức Tiếng Việt, văn học đời sống hằng ngày. Qua các bài tập
đọc còn giáo dục tình cảm cho các em.
Vậy đọc là một kĩ năng quan trọng hàng đầu của con người, nếu đọc không
được con người sẽ không cảm thụ được nền văn minh . Nhờ biết đọc con người
có thể tự biết đọc, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ. Vì thế việc dạy đọc ở
nhà trường Tiểu học nhất là các lớp đầu cấp ,chủ yếu là lớp Một rất quan trọng.


Giúp các em hào hứng phấn khởi, tự tin hơn. Hỗ trợ đắc lực cho việc tiếp thu
môn học khác.
Việc dạy đọc cho học sinh ở trường tiểu học bên cạnh những thuận lợi,
nhưng cũng có nhiều hạn chế: học sinh đọc chưa tốt, còn vấp váp, đọc chưa
được theo ý muốn. Kết quả đọc của các em chưa đáp ứng được yêu cầu của việc
hình thành kĩ năng đọc, các em chưa nắm được công cụ hữu hiệu để lĩnh hội tri
thức, những tình cảm của người khác chứa đựng trong văn bản. Phần nhiều các
em chưa qua lớp mẫu giáo ( tập trung nhiều ở các khu C,D ) có những em 8 , 9
tuổi mới được đi học đầu tiên nên còn nhiều bỡ ngỡ, mặc cảm. Sự tiếp thu bài
của các em rất chậm, nhất là việc đọc, đọc rất yếu so với học sinh đúng tuổi đi
học lớp Một còn một số em nói ngọng, nói lắp, rất khó khăn trong việc phát âm,
có học sinh không chịu học bài, nếu không có người thân bên cạnh. Đa số các


học sinh vẫn quen phát âm theo giọng địa phương không phân biệt cách phát âm
nên đã đọc và viết sai giữa các từ đồng âm…
* Về phía phụ huynh:
Đa số phụ huynh phát âm theo giọng địa phương: ví dụ: hoa - qua; vừadừa; rồi- gồi;… làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc đọc của học sinh. Hầu hết
phụ huynh học sinh còn nghèo phải đi làm ăn kiếm sống nên ít quan tâm, còn
xem nhẹ đến việc học tập của con em mình.Nhiều phụ huynh vẫn còn đánh vần
theo kiểu cổ truyền , cho nên khi dạy cho học sinh ở nhà không phù hợp với
cách dạy của giáo viên hiện nay, khi đến lớp việc sửa lỗi phát âm cho các em
gặp không ít khó khăn.Vậy làm thế nào để sửa lỗi phát âm cho học sinh, giúp
học sinh đọc hiểu văn bản,giúp học sinh đọc tốt về cuối năm,….Tôi có nhiều
băn khoăn khi dạy đọc ở lớp Một.
Qua thời gian giảng dạy lớp Một .Tôi nghiên cứu tìm một số biện pháp cách


luyện đọc cho học sinh lớp Một, đã và đang áp dụng vào dạy lớp mình và thấy
các em đọc ngày càng tốt hơn.

Tác giả: Trần Thị Lan

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Trang

1



Xuất phát từ những nguyên nhân trên nên tôi chọn đề tài “Một số biện pháp
rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp Một”làm sáng kiến kinh nghiệm để nghiên cứu
và ứng dụng vào thực tiễn trong quá trình giảng dạy của chính mình.

B- Phần II: Biện pháp giải quyết vấn đề
1, Kiểm tra kiến thức từng học sinh để phân loại :
Bước vào những ngày đầu năm học, tôi luôn quan tâm kiểm tra việc đọc
và nhận biết qua mỗi âm trong bảng chữ cái, để có biện pháp giúp đỡ cho từng
em .
Trong mỗi buổi học tôi tranh thủ thời gian đầu giờ, giữa giờ, cuối giờ,… để
kiểm tra đọc một số em để nắm được cách đọc phát âm và sửa chữa kịp thời
những học sinh phát âm chưa đúng.Tôi thường xuyên trả bài cũ trong tiết học để


nắm được việc tiếp thu bài và nhớ âm chữ, cách phát âm của từng em.
2, Chuẩn bị cho việc đọc:
Để rèn cho học sinh thói quen đọc được tốt. Tôi luôn chú ý và hướng dẫn
học sinh đến việc đọc như sau:
Tư thế cầm sách, đứng đọc, cách ngồi đọc. Khi đọc phải to rõ ràng, đủ cho
cả lớp nghe, phát âm chính xác. Khen ngợi động viên kịp thời những học sinh
đọc bài tốt, hăng hái phát biểu ý kiến xây dựng bài. Thường xuyên gọi học sinh
yếu lên bảng, đứng tại chỗ đọc.Giáo viên theo dõi chỉnh sửa khi học sinh đọc
sai. Cho học sinh phát hiện chữ khó đọc và hướng dẫn học sinh luyện đọc nhiều
lần những tiếng từ khó đọc theo hình thức: cá nhân, tập thể…
Hướng dẫn học sinh đọc: quan sát cách đọc của học sinh những chỗ học sinh
đọc sai, sau đó tôi sẽ sửa phát âm cho các em. Hướng dẫn học sinh đọc không


bỏ hoặc thêm tiếng, dấu thanh,…. đọc theo que chỉ. của giáo viên sau đó bỏ dần
để các em quen với cách đọc.
3, Rèn cho học sinh các hình thức: đọc thầm, đọc hiểu đọc thành tiếng
• Đọc thầm:
Học sinh nhìn liếc mắt đọc và phân tích cấu tạo vần, đọc trong trí nhớ. Tôi
yêu cầu học sinh nào đọc xong trước thì giơ tay để giáo viên kiểm tra tốc độ đọc
của học sinh.
• Đọc hiểu:
Hướng dẫn học sinh kĩ năng nhận biết từ mới, từ khó hiểu chia một số từ
thành hai cột đảo lộn trật tự cho học sinh đọc và ghép lại để từ có nghĩa.
• Đọc thành tiếng :
Rèn cho học sinh cách phát âm tự tin, biết lấy hơi khi đọc, đọc to, rõ vừa


đủ cho cả lớp nghe. Rèn cho các học sinh phương pháp đọc cá nhân, nối tiếp
theo dãy bàn, đọc nhóm c ả lớp.
4, Biện pháp dạy đọc mẫu của giáo viên :
Việc đọc mẫu của giáo viên giữ một vai trò quan trọng. Người thầy đầu tiên
đặt nền móng, trang bị cho học sinh về chuẩn ngôn ngữ của lời nói, nhất là khi
dạy phần học vần lớp Một. Giáo viên luyện đọc phát âm đúng cho học sinh, học
sinh sẽ bắt chước rất nhanh khi đọc âm, vần, tiếng từ mới. Vì thế giáo viên sửa
phát âm phần âm, vần, tiếng thì không mấy khó.
Tác giả: Trần Thị Lan

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM


Trang

2


Khi đọc câu, để đọc đúng và hay, giáo viên phải có lòng ham muốn đọc
hay và tự biết điều chỉnh đọc đúng và hay hơn. Hiện nay vẫn còn một số giáo
viên phát âm giọng địa phương nên còn mắc nhiều lỗi khi dạy đọc cho học
sinh.Vì thế, trước khi dạy cho học sinh đọc tôi phải chuẩn bị cho mình một
giọng đọc phù hợp với nội dung bài, nhằm sau khi đọc mẫu học sinh sẽ đọc
đúng và hay.
Khi đọc mẫu tôi kết hợp giải nghĩa từ, để học sinh hiểu và dể nhớ thì sẽ đọc


tốt hơn. Với bài đọc đó có lời đối thoại tôi đọc mẫu, học sinh lắng nghe phân
biệt giọng đọc của từng vai, sau đó luyện cho học sinh đọc lại .
5, Một số biện pháp dạy đọc giúp học sinh dễ nhớ:
• Đọc âm :
Khi cho học sinh đọc một âm, vần nào đó, nếu học sinh không nhớ. Tôi cho hoc
sinh nêu cấu tạo âm vần.
Ví dụ: âm “ ch” học sinh nêu các âm ghép thành “ ch”, nếu học sinh vẫn chưa
nhớ thì tôi có một gợi ý về một đồ vật, con vật hoặc một việc làm, … có chứa tiếng
“ chờ” khi đó học sinh sẽ nhớ và đọc được ngay.
• Đọc vần:
Khi học sinh đọc một vần nào đó xong, tôi có thể yêu học sinh phân tích, nêu
cấu tạo và vị trí các âm tạo nên vần đó và yêu cầu học sinh phát âm cho đúng.


• Đọc tiếng :
Khi yêu cầu học sinh đọc tiếng nào đó, tôi cho học sinh nêu cấu tạo tiếng.
Ví dụ: tiếng “đào” gồm có âm đ đứng trước, vần ao đứng sau, dấu huyền trên a.
Còn những tiếng có âm đầu nhất là những âm ghép bằng 2 đến 3 chữ cái thì
học sinh trung bình, yếu thường hay quên. Tôi sẽ nêu câu hỏi gợi ý như dạy đọc âm
hoặc yêu cầu học sinh đánh vần một tiếng có vần đó, các em sẽ nhận ra ngay và
đọc được tiếng .
• Đọc câu:
Đối với học sinh lớp Một, thực tế cho thấy các em thường đọc theo kiểu đọc vẹt,
nhưng phần lớn chưa nhớ được mặt chữ.Khi giáo viên yêu cầu đọc một chữ nào đó
thì học sinh không đọc được.
Để học sinh nhận và nhớ được mặt chữ đọc đúng và nhanh, khi học sinh đọc


xong câu. Tôi cho học sinh phân tích tiếng nào đó hoặc che đi một số chữ và yêu
cầu học sinh đọc các chữ còn lại. Sau đó tôi có thể cho học sinh đọc câu mới đã đảo
lộn trật tự như vẫn giữ nguyên nội dung câu vừa đọc.
Với cách làm như vậy tránh được học sinh đọc vẹt giúp cho học sinh đọc thêm
từ mới câu mới. Còn khi dạy đến câu dài các em đọc còn rời rạc, tôi cho học sinh
đọc từng cụm từ sau đó đọc lượng chữ tăng dần, từ cuối câu đọc lên.
Ví dụ: “ Sau cơn mưa, cả nhà cá bơi đi bơi lại bận rộn” – Tách thành từ, cụm
từ: bận rộn / bơi đi bơi lại bận rộn / cả nhà cá bơi đi bơi lại bận rộn. Sau cơn mưa,
cả nhà cá bơi đi bơi lại bận rộn.
Như vậy : Đơn vị đọc sẽ là câu suông sẻ hơn, giúp học sinh dễ nhớ và đọc
tốt .Từ đó xây dựng được học sinh thói quen phân tích câu và hiểu nghĩa của câu,
biết cách dùng từ.


Tác giả: Trần Thị Lan

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Trang

3


6, Xây dựng mối đoàn kết giữa học sinh với nhau:
Giáo dục học sinh có mối quan hệ mật thiết với nhau.Quan tâm giúp đỡ nhau
trong học tập, nhất là những học sinh học yếu, kém, con gia đình nghèo, học sinh


lớn tuổi.
Ngay vào đầu năm học sau khi ổn định lớp.Tôi đã kiểm tra và nắm bắt được
tình hình học tập của học sinh. Tôi đã sắp xếp cho học sinh khá ngồi cạnh một học
sinh yếu. Tôi hướng dẫn cho học sinh khá cách dạy, cách kiểm tra bài để kèm cho
học sinh yếu, vào đầu giờ và giữa giờ…..Thời gian 15 phút đầu giờ mỗi buổi, cho
học sinh giỏi đọc cho học sinh cả lớp ôn luyện. Sau đó luân phiên nhau để học sinh
cả lớp đọc, nếu em nào quên hoặc sai thì bạn học sinh giỏi giúp bạn. Tôi khuyến
khích động viên học sinh giỏi, khá kèm học sinh yếu mà tiến bộ thì sẽ có phần
thưởng, kể cả học sinh yếu có sự tiến bộ trong học tập, em khá giỏi hướng dẫn
được cho bạn như vậy thì có dịp bộc lộ được khả năng của mình, sẽ nắm vững hơn
phần kiến thức. Những việc làm này tạo sự đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ và
có thói quen học tập tốt, xây dựng được nền nếp học tập.


Ở nhà tôi động viên các em trong xóm giúp đỡ lẫn nhau , cùng học cùng chơi,
cùng chia sẽ khó khăn trong học tập.
Tôi còn hướng dẫn cho các em chơi một số trò chơi ghép chữ, đọc, tìm tiếng từ
mới có âm, vần vừa học có thể chơi theo nhóm tổ,…. Đến sau HKII cho các em
chơi mức cao hơn như: Quan sát tranh, mô hình,… rồi nói nội dung tranh ,…..trong
nội dung đó có chứa tiếng gì, nội dung chơi có liên quan đến âm, vần mà học sinh
hay quên và lẫn lộn.Việc làm này đã giúp cho học sinh luôn nhớ và đọc được âm
vần ,vừa giúp cho lớp học thêm sinh động.
7, Tạo mối quan hệ giữa giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh học sinh:
Một số phụ huynh học sinh vẫn còn đánh vần theo kiểu cổ truyền khi dạy cho
học sinh ở nhà không phù hợp với cách đọc của giáo viên khi ở lớp hiện nay. Khi
đến lớp học sinh lúng túng việc đọc.


Vì thế ngay buổi họp mặt phụ huynh đầu năm.Tôi trao đổi với phụ huynh về
việc dạy thêm cho học sinh khi ở nhà. Hướng dẫn cụ thể với phụ huynh cách đánh
vần, ghép tiếng để có cách dạy phù hợp, giúp học sinh có được cách đọc theo thống
nhất chung. Yêu cầu phụ huynh xây dựng góc học tập ở nhà cho học sinh và quản lí
giờ học, giờ chơi của các em. Rèn cho học sinh có ý thức tự học nhất là tự đọc bài,
đọc thêm sách, báo,….Hướng dẫn phụ huynh kiểm tra đọc cho học sinh, theo
không thứ tự để tránh học sinh đọc vẹt dẫn đến không nhận biết mặt chữ.
Vận động phụ huynh động viên các em đi học đúng giờ, dành thời gian cho các
em học bài, không cho các em nghỉ học nếu không cần thiết.Tôi thường xuyên trao
đổi với phụ huynh có học sinh đọc viết yếu , trao đổi việc học tập để nâng dần chất
lượng.


Tác giả: Trần Thị Lan

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Trang

4


C- Phần II: Kết quả
Qua việc rèn đọc cho học sinh với những biện pháp nêu trên, giúp cho học
sinh lớp tôi đạt được kết quả như sau:


1, Bảng số liệu:
Tổng
số học
Đầu năm học
Cuối HKI
Giữa HKII
sinh
Đọc chưa
Đọc
Đọc chưa
Đọc chưa
Đọc được


Đọc được
được
được
được
được
30
2
28
29
1
30
Tất cả học sinh đều tích cực h ọc tập, đọc có nhiều tiến bộ, rõ rệt so với thời


điểm đầu năm. Hiện nay có nhiều em đọc theo như ý muốn, đọc diễn cảm, to rõ
ràng phát âm chính xác.
Khi đã biết đọc các em thích đọc thêm sách ,báo đọc khẩu hiệu …. Từ đó nâng
cao chất lượng đọc cho học sinh. Phụ huynh học sinh từng bước nắm được cách
đánh vần cách phát âm, cách ghép tiếng để dạy cho các em đọc rất phù hợp với
chương trình giáo dục, còn luôn quan tâm đến việc đọc cho các em khi đến lớp.
Qua bảng số liệu trên, vào đầu năm học có hai em đọc được vì phụ huynh có
dạy kèm trước cho các em khi vào học lớp Một. Như vậy nếu giáo viên và phụ
huynh có sự chuẩn bị đầu tư tốt thì việc rèn cho học sinh đọc đến cuối năm mới đạt
kết quả cao.
* Kết luận :
Trên đây là những biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp Một . Tôi đã áp


dụng dạy cho sinh lớp của tôi đã nhiều năm qua và đã trở thành kinh nghiệm của
bản thân.Cụ thể đến cuối năm không có học sinh nào chưa biết đọc nhận thấy các
em đ ọc ngày một tốt hơn, càng về sau chất lượng đọc của các em đạt kết quả tốt.
Tôi nghĩ rằng những biện pháp trên không chỉ áp dụng riêng cho lớp tôi, mà có thể
áp dụng rộng rãi cho tất cả giáo viên đã và đang dạy lớp Một. Qua biện pháp dễ
thực hiện nhưng nếu áp dụng dạy được cho học sinh khối lớp Một thì kết quả đạt
rất khả quan.
Mặc dù với những kết quả đạt được tốt nhưng tôi nghĩ việc làm trên cũng còn
có mặt hạn chế nào đó mà tôi chưa thấy được. Rất mong được sự đóng góp , bổ
sung của đồng nghiệp , hội đồng khoa học nhà trường để có những biện pháp tốt
hơn ,nhằm nâng cao chất lượng dạy và học đạt kết quả cao hơn.
Phường 9, ngày 24 tháng 4 năm 2009.


Người viết
Trần Thị Lan
Tác giả: Trần Thị Lan

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Trang

5


PHẦN NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Tên đề tài: “ MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 1 ”
Tác giả:
Trần Thị Lan
Trường Tiểu học phường 9
Thành phố Cà Mau
Nội dung
xếp loại
- Đặt vấn đề
- Biện pháp
- Kết quả phổ biến, ứng dụng
- Tính khoa học


- Tính sáng tạo

Phòng giáo dục & Đào tạo
Thành phố Cà Mau
Nội dung
xếp loại
- Đặt vấn đề
- Biện pháp
- Kết quả phổ biến, ứng dụng
- Tính khoa học
- Tính sáng tạo


* xếp loại chung:…………………….

* xếp loại chung:…………………….

Ngày …….tháng…..năm 2009
Hiệu trưởng

Ngày ……tháng ……năm 2009
Thủ trưởng đơn vị

Căn cứ vào kết quả xét, thẩm định của Hội đồng khoa học ngành GD & ĐT cấp
tỉnh:


Giám đốc Sở GD & ĐT Cà Mau thống nhất công nhận SKKN và xếp loại:………
Ngày ….. tháng năm 2009
Giám đốc

Tác giả: Trần Thị Lan

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Trang

6




SKKN một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.86 KB, 24 trang )

Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1

MỤC LỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM- ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN ĐỌC
CHO HỌC SINH LỚP 1.......................................................................................0
A Mở đầu...............................................................................................................1
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.......................................................................................1
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI.....................................................1
III.ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU..........................................................................1
IV.ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT, THỰC NGHIỆM................................................1
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU....................................................................1
VI.PHẠM VI NGHIÊN CỨU...............................................................................2
VII. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU.........................................................................2
B.Nội dung............................................................................................................3
Chương I - CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG.................................................................3
I. VỊ TRÍ, NHIỆM VỤ CỦA DẠY HỌC Ở TIỂU HỌC......................................3
1. Vị trí của dạy đọc ở Tiểu học............................................................................3
2. Nhiệm vụ của dạy đọc ở Tiểu học.....................................................................4
II. NHỮNG CƠ SỞ CỦA VIỆC DẠY ĐỌC Ở TIỂU HỌC.................................5
1. Cơ sở tâm lý, sinh lý của việc dạy đọc..............................................................5
2. Cơ sở ngôn ngữ và văn học của việc dạy đọc...................................................6
3. Cơ sở thực tiễn của việc rèn đọc cho học sinh lớp 1.........................................7
a. Đặc điểm chung của địa phương.......................................................................7
b. Đặc điểm chung của lớp 1B..............................................................................7
Chương II - THỰC TRẠNG DẠY HỌC..............................................................8
I. Tình hình – Kết quả khảo sát điều tra................................................................8
II. Những phương pháp giáo viên thường sử dụng trong phần rèn đọc...........................9
Chương III- ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC...........................................10
I. Biện pháp tác động giáo dục............................................................................10
II. Phần học các nét cơ bản..................................................................................10
III. Phần học âm..................................................................................................12


IV. Phần học vần.................................................................................................14
V. Phần Tập đọc..................................................................................................15
VI. Phương pháp và hình thức tổ chức dạy học..................................................16
VII. Những phương tiện dạy học.........................................................................18
C. Kết luận và kiến nghị......................................................................................19
I. Kết luận……………………………………………………………………....19
II. Kiến nghị………………………………………………………...…………..19
A. PHẦN MỞ ĐẦU

Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng


Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1
I. Lí do chọn đề tài:
Môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học có nhiệm vụ vô vùng quan trọng, hình
thành 4 kỹ năng: Nghe – nói - đọc – viết cho học sinh.
Kĩ năng đọc là sự khởi đầu giúp cho học sinh chiếm lĩnh một công cụ mới
để sử dụng trong học tập và trong giao tiếp. Nếu kĩ năng viết được coi là phương
tiện ưu thế nhất trong hệ thống ngôn ngữ thì kĩ năng đọc có một vị trí quan trọng
không thiếu được trong chương trình môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học . Cùng với
kĩ năng viết, kĩ năng đọc có nhiệm vụ lớn lao là trao cho các em cái chìa khóa để
vận dụng chữ viết trong học tập. Khi biết đọc, biết viết các em có điều kiện nghe
lời thầy giảng trên lớp, sử dụng sách giáo khoa, sách tham khảo…Từ đó có điều
kiện học tốt các môn học học khác.
Ở lớp 1 các em học sinh bắt đầu làm quen với: Nghe, nói, đọc, viết. Và kĩ
năng đọc rất quan trọng, nếu kĩ năng đọc được rèn luyện tốt, hình thành tốt ở các
em nó sẽ giúp các em đọc tốt suốt cả cuộc đời, giúp các em phát triển tư duy,
cảm nhận cái hay, cái đẹp trong mỗi bài học, hiểu được nghĩa của tiếng, từ, câu,
đoạn văn, bài văn mình vừa đọc, hiểu được các lệnh các yêu cầu trong các môn
học khác. Mặt khác, ở lớp 1, các em được tập đọc thành thạo, đọc đúng, đọc trôi


chảy thì khi lên các lớp trên các em sẽ học vững vàng, học tốt hơn. Và các em sẽ
ham học, tích cực trong học tập hơn nếu kết quả học tập tốt.
Bắt đầu học đọc, học viết nên các em lớp 1 còn nhiều bỡ ngỡ và tiếp thu
kiến thức thật khó khăn, nhiều em chưa nắm vững các chữ cái. Nếu không được
quan tâm, rèn luyện thì chất lượng học tập của các em không cao. Theo tôi, để
nâng cao chất lượng học sinh phải giúp học sinh nắm được kiến thức cơ bản
ngay từ lớp 1. Mà đa số các em đọc chưa tốt đều do chưa thuộc kĩ âm, vần, chưa
đọc thông viết thạo cho nên việc giúp học sinh có kĩ năng đọc tốt hơn rất quan
trọng. Đó là lí do tôi chọn” Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1” để
nghiên cứu và áp dụng vào thực tế lớp tôi chủ nhiệm, mong muốn các em đều
đọc tốt có nền móng cơ bản để học các lớp trên.
II. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu đề tài ‘’Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1’’nhằm
góp phần nâng cao hơn nữa kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1 – Trường Tiểu học
Hướng Phùng.
III. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1.
IV. Đối tượng khảo sát, thực nghiệm:
Học sinh lớp 1B trường Tiểu học Hướng Phùng.
V. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng những phương pháp sau :
1. Phương pháp quan sát
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
-2-


Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1
2. Phương pháp điều tra
3. Phương pháp luyện tập thực hành.
4. Phương pháp đàm thoại.


5. Phương pháp hoạt động theo nhóm nhỏ.
5. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm
VI. Phạm vi nghiên cứu
Những biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 để nâng cao chất lượng dạy
học.
VII. Thời gian nghiên cứu:
Từ tháng 8 năm 2014 đến tháng 2 năm 2015.

B. PHẦN NỘI DUNG
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
-3-


Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1

Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
I. VỊ TRÍ, NHIỆM VỤ CỦA DẠY HỌC Ở TIỂU HỌC
1. Vị trí của dạy đọc ở Tiểu học
a. Khái niệm đọc:
Môn Tiếng Việt ở trường phổ thông có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt
động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện bốn
dạng hoạt động, tương ứng với chúng là bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Đọc là
một dạng hoạt động ngôn ngữ, là quá trình chuyển dạng thức chữ viết sang lời
nói có âm thanh và thông hiểu nó (ứng với hình thức đọc thành tiếng), là quá
trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết thành các đơn vị nghĩa không có âm
thanh (ứng với đọc thầm).
Đọc không chỉ là công việc giải một bộ mã gồm 2 phần chữ viết và phát
âm, nghĩa là nó không phải chỉ là sự “đánh vần” lên thành tiếng theo đúng như
các ký hiệu chữ viết mà còn là một quá trình nhận thức để có khả năng thông


hiểu những gì được đọc. Trên thực tế, nhiều khi người ta đã không hiểu khái
niệm “đọc” một cách đầy đủ. Nhiều chỗ người ta chỉ nói đến đọc như nói đến
việc sử dụng bộ mã chữ âm còn việc chuyển từ âm sang nghĩa đã không được
chú ý đúng mức.
b. Ý nghĩa của việc đọc
Những kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu văn hoá, khoa học, tư
tưởng, tình cảm của các thế hệ trước và của cả những người đương thời phần lớn
đã được ghi lại bằng chữ viết. Nếu không biết đọc thì con người không thể tiếp
thu nền văn minh của loài người, không thể sống một cuộc sống bình thường, có
hạnh phúc với đúng nghĩa của từ này trong xã hội hiện đại. Biết đọc, con người
đã nhân khả năng tiếp nhận lên nhiều lần, từ đây anh ta biết tìm hiểu, đánh giá
cuộc sống nhận thức các mối quan hệ tự nhiên, xã hội, tư duy. Biết đọc con
người sẽ có khả năng chế ngự một phương tiện văn hoá cơ bản giúp họ giao tiếp
được với thế giới bên trong của người khác, thông hiểu tư tưởng tình cảm của
người khác, đặc biệt khi đọc các tác phẩm văn chương, con người không chỉ
được thức tỉnh về nhận thức mà còn rung động tình cảm, nảy nở những ước mơ
tốt đẹp, được khơi dậy năng lực hành động sức mạnh sáng tạo cũng như được
bồi dưỡng tâm hồn không biết đọc con người sẽ không có điều kiện hưởng thụ
sự giáo dục mà xã hội dành cho họ, không thể hình thành được một nhân cách
toàn diện. Đặc biệt trong thời đại bủng nổ thông tin thì biết đọc ngày càng quan
trọng vì nó sẽ giúp người ta sử dụng các nguồn thông tin, đọc chính là học, học
nữa học mãi, đọc để tự học, học cả đời. Vì những lý lẽ trên dạy đọc có ý nghĩa
to lớn ở Tiểu học. Đọc trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối với mỗi người
đi học. Đầu tiên trẻ phải học đọc, sau đó trẻ phải đọc để học. Đọc giúp trẻ em
chiếm lĩnh được một ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập. Nó là công cụ
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
-4-


Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1


để học tập các môn học khác. Nó tạo ra hứng thú và động cơ học tập. Nó tạo
điều kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh thần học tập cả đời. Nó là một
khả năng không thể thiếu được của con người văn minh.
Đọc một cách có ý thức cũng sẽ tác động tích cực tới trình độ ngôn ngữ
cũng như tư duy của người đọc, việc dạy đọc sẽ giúp học sinh hiểu biết hơn, bồi
dưỡng ở các em lòng yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ một
cách logic cũng như biết tư duy có hình ảnh. Như vậy đọc có một ý nghĩa to lớn
còn vì nó bao gồm các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.
2. Nhiệm vụ của dạy đọc ở Tiểu học
Những điều vừa nêu trên khẳng định sự cần thiết của việc hình thành và
phát triển một cách có hệ thống và có kế hoạch năng lực đọc cho học sinh. Tập
đọc với tư cách là một phân môn của Tiếng Việt ở tiểu học có nhiệm vụ đáp ứng
yêu cầu này – hình thành và phát triển năng lực đọc cho học sinh.
Phân môn học vần cũng thực hiện nhiệm vụ dạy đọc nhằm giúp học sinh
sử dụng bộ mã chữ âm. Việc thông hiểu văn bản chỉ đặt ra ở mức độ thấp và
chưa có hình thức chuyển thẳng từ chữ sang nghĩa (đọc thầm). Như vậy, tập đọc
với tư cách là một phân môn Tiếng Việt tiếp tục những thành tựu dạy học mà
học cần đạt được, nâng lên một mức đầy đủ hoàn chỉnh hơn.
Tập đọc là một phân môn thực hành nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là
hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ bốn kĩ năng
cũng là bốn yêu cầu về chất lượng của “đọc”: đọc đúng, đọc nhanh (đọc lưu loát,
trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều mình đọc hay
còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Bốn kĩ năng này được hình thành trong 2
hình thức đọc: đọc thành tiếng và đọc thầm. Chúng được rèn luyện đồng thời và
hỗ trợ lẫn nhau. Sự hoàn thiện một trong những kĩ năng này sẽ có tác động tích
cực đến những kĩ năng khác. Ví dụ, đọc đúng là tiền đề của đọc nhanh cũng như
cho phép thông hiểu nội dung văn bản. Ngược lại, nếu không hiểu điều mình
đang đọc thì không thể đọc nhanh và diễn cảm được. Nhiều khi khó mà nói được
rạch ròi kĩ năng nào làm cơ sở cho kĩ năng nào, nhờ đọc đúng mà hiểu đúng hay
chính nhờ hiểu đúng mà đọc được đúng. Vì vậy, trong dạy đọc không thể xem


nhẹ yếu tố nào.
Nhiệm vụ thứ hai của dạy đọc là giáo dục lòng ham đọc sách, hình thành
thói quen làm việc với văn bản, với sách cho học sinh. Nói cách khác thông qua
việc dạy đọc phải giúp học sinh thích đọc và thấy được rằng khả năng đọc là có lợi
ích cho các em trong cả cuộc đời, phải làm cho học sinh thấy đó là một trong những
con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển.
Ngoài ra việc đọc còn có những nhiệm vụ khác đó là làm giàu kiến thức
về ngôn ngữ, đời sống và kiến thức văn hoá cho học sinh, phát triển ngôn ngữ và
tư duy, giáo dục tư tưởng đạo đức, tình cảm, thị hiếu thẩm mỹ cho các em.

Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
-5-


Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1
II. NHỮNG CƠ SỞ CỦA VIỆC DẠY ĐỌC Ở TIỂU HỌC
1. Cơ sở tâm lý, sinh lý của việc dạy đọc

Để tổ chức dạy đọc cho học sinh, chúng ta cần hiểu rõ về quá trình đọc,
nắm bản chất của kĩ năng đọc. Đặc điểm tâm lý sinh lý của học sinh khi đọc hay
cơ chế của đọc là cơ sở của việc dạy học.
Như trên đã nói, đọc là một hoạt động trí tuệ phức tạp mà cơ sở là việc
tiếp nhận thông tin bằng chữ viết dựa vào các hoạt động của cơ quan thị giác.
Chúng ta đi vào phân tích đặc điểm của quá trình này.
- Đọc được xem như là một hoạt động có hai mặt quan hệ mật thiết với
nhau, là việc sử dụng bộ mã gồm hai phương diện. Một mặt đó là quá trình vận
động của mắt, sử dụng bộ mã chữ - âm để phát ra một cách trung thành nhưng
dòng văn tự ghi lại lời nói âm thanh. Thứ hai đó là sự vận động của tư tưởng,
tình cảm, sử dụng bộ mã chữ - nghĩa tức là mối liên hệ giữa các con chữ và ý
tưởng, các khái niệm chứa đựng bên trong để nhớ và hiểu cho được nội dung


những gì được đọc.
- Đọc bao gồm những yếu tố như tiếp nhận bằng mắt hoạt động của các
cơ quan phát âm, các cơ quan thính giác và thông hiểu những gì được đọc. Càng
ngày những yếu tố này càng gần nhau hơn, tác động đến nhau nhiều hơn.
Nhiệm vụ cuối cùng của sự phát triển kĩ năng đọc là đạt đến sự tổng hợp
giữa những mặt riêng lẻ này của quá trình đọc, đó là điểm phân tích biết người
mới biết đọc và người đọc thành thạo. Càng có khả năng tổng hợp các mặt trên bao
nhiêu thì việc đọc càng hoàn thiện, càng chính xác, càng biểu cảm bấy nhiêu.
- Dễ dàng nhận thấy rằng thuật ngữ "đọc" được sử dụng trong nhiều
nghĩa : Theo nghĩa hẹp, việc hình thành kĩ năng đọc trùng với nắm kĩ thuật đọc
(tức là việc chuyển dạng thức chữ viết của từ thành âm thanh), theo nghĩa rộng,
đọc được hiểu là kĩ thuật đọc của những từ riêng lẻ mà cả câu, cả bài). Ý nghĩa
hai mặt của thuật ngữ đọc được ghi nhận trong các tài liệu tâm lý học và phương
pháp dạy học. Từ đây chúng ta sẽ hiểu đọc với nghĩa thứ hai - đọc được xem
như là một hoạt động lời nói trong đó có các thành tố:
1. Tiếp nhận dạng thức chữ viết của từ
2. Chuyển dạng thức chữ viết thành âm thanh, nghĩa là phát âm các từ
theo từng chữ cái (đánh vần) hay là đọc thành từng tiếng tuỳ thuộc vào trình độ
nắm kĩ thuật đọc.
3. Thông hiểu những gì được đọc (từ, cụm từ, câu, bài) kĩ năng đọc là một
kĩ năng phức tạp, đòi hỏi một quá trình luyện lâu dài. Chia việc hình thành kĩ
năng này ra làm 3 giai đoạn : phân tích tổng hợp (còn gọi là giai đoạn phát sinh,
hình thành một cấu trúc chỉnh thể của hành động) và giai đoạn tự động hoá. Giai
đoạn dạy học vần là sự phân tích các chữ cái và đọc từng tiếng theo các âm. Giai
đoạn tổng hợp thì đọc thành cả từ trọn vẹn, trong đó có sự tiếp nhận từ bằng thị
giác và phát âm hầu như trùng với nhận thức ý nghĩa. Tiếp theo sự thông hiểu ý
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
-6-



Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1
nghĩa của "từ" trong cụm từ hoặc câu đi trước sự phát âm, tức là đọc được thực
hiện trong sự đoán các nghĩa. Bước sang lớp 2, lớp 3 học sinh bắt đầu đọc tổng
hợp. Trong những năm học cuối cấp, đọc càng ngày càng tự động hoá, nghĩa là
người đọc ngày càng ít quan tâm đến chính quá trình đọc mà chú ý nhiều đến
việc chiếm lĩnh văn hoá (bài khoá), nội dung của sự kiện, cấu trúc chủ đề, các
phương tiện biểu đạt của nó. Thời gian gần đây, người ra đã chú trọng hơn đến
những mối quan hệ quy định lẫn nhau của việc hình thành kĩ năng đọc và hình
thành kĩ năng làm việc với văn bản. Nghĩa là đòi hỏi giáo viên tổ chức giờ học
đọc sao cho việc phân tích nội dung của bài đọc đồng thời hướng dẫn đọc có ý
thức bài đọc. Việc đọc như thế nhằm vào sự nhận thức. Chỉ xem là đứa trẻ biết
đọc khi nó đọc mà hiểu trương điều mình đọc. Đọc là hiểu nghĩa chữ viết. Nếu
trẻ không hiểu được những từ ta đưa cho chúng đọc, chúng sẽ không có hứng
thú học tập và không có khả năng thành công. Do đó hiểu những gì được đọc sẽ
tạo ra động cơ, hứng thú cho việc đọc.
Để có giờ học vần kết quả tốt người giáo viên phải nắm được đặc điểm
tâm sinh lý của học sinh mình nắm được đặc điểm yêu cầu, bản chất kĩ năng cơ
chế mục đích cần đạt được của tiết dạy học vần. Trên cơ sở đó sử dụng phương
pháp cho phù hợp.
2. Cơ sở ngôn ngữ và văn học của việc dạy đọc
Phương pháp dạy học vần phải dựa trên những cơ sở của ngôn ngữ học.
Nó liên quan mật thiết với một số vấn đề của ngôn ngữ học như vấn đề chính
âm, chính tả, chữ viết, ngữ điệu (thuộc ngữ âm học), vấn đề nghĩa của từ, của
câu, đoạn, bài (thuộc từ vựng học, ngữ nghĩa học), vấn đề dấu câu, các kiểu
câu… Phương pháp dạy học học vần phải dựa trên những kết quả nghiên cứu
của ngôn ngữ học, việt ngữ học về những vấn đề nói trên để xây dựng, xác lập
nội dung và phương pháp dạy học. Bốn phẩm chất của đọc không thể tách rời
những cơ sở ngôn ngữ học. Không coi trọng đúng mức những cơ sở này, việc
dạy học sẽ mang tính tuỳ tiện và không đảm bảo hiệu quả dạy học.
a. Vấn đề chính âm trong tiếng Việt


Chính âm là các chuẩn mực phát âm của ngôn ngữ có giá trị và hiệu quả
về mặt xã hội. Vấn đề chuẩn mực phát âm tiếng Việt đang là vấn đề thời sự, có
nhiều ý kiến khác nhau. Nó liên quan đến nhiều vấn đề khác nhau như chuẩn
hoá ngôn ngữ, giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt, mục đích của việc xây dựng
chính âm.
b. Vấn đề ngữ điệu của Tiếng Việt
Theo nghĩa hẹp, ngữ điệu là sự thay đổi giọng nói, giọng đọc, là sự lên
cao hay hạ thấp giọng đọc, giọng nói. Ngữ điệu là một trong những thành phần
của ngôn điệu. Ngữ điệu là yếu tố gắn chặt với lời nói, là yếu tố tham gia tạo
thành lời nói.
Mỗi ngôn ngữ có một ngữ điệu riêng. Ngữ điệu tiếng Việt, như các ngôn
ngữ có thanh điệu khác, chủ yếu được biểu hiện ở sự lên giọng và xuống giọng
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
-7-


Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1
(cao độ), sự nhấn giọng (cường độ), sự ngừng giọng (trường độ) và sự chuyển
giọng (phối hợp cả trường độ và cường độ).
Ngữ điệu là một hiện tượng phức tạp có thể tách ra thành các yếu tố cơ
bản có quan hệ với nhau: chỗ nghỉ (ngưng giọng hay ngắt giọng) trọng âm, âm
điệu, âm nhịp và âm sắc. Dạy đọc đúng ngữ điệu là dạy học sinh biết làm chủ
những yếu tố này.
3. Cơ sở thực tiễn của việc rèn đọc cho học sinh yếu lớp 1
a. Đặc điểm chung của địa phương
Hướng Phùng là một trong những xã khó khăn của vùng Bắc Hướng Hóa,
đa số học sinh là con em đồng bào Vân Kiều, điều kiện kinh tế và đi lại còn gặp
nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, phụ huynh chưa có đủ điều kiện và chưa có sự
quan tâm đến việc học của con em. Nhưng nhờ sự quan tâm của chính quyền địa
phương, sự chỉ đạo sát sao và kịp thời của Chuyên môn nhà trường, tổ khối, đã


vận động, huy động để các em đến lớp đều đặn hơn, đặc biệt là những em học
sinh còn đọc chưa tốt, giúp các em có cơ hội rèn luyện việc đọc của mình nhiều
hơn.
b. Đặc điểm chung của lớp 1B
- Tổng số lớp là 30 em, trong đó có 12 nữ.
- Tất cả các em là người Vân Kiều, môi trường tiếp xúc và sử dụng tiếng
Việt còn nhiều hạn chế.
- Số học sinh đã qua mầm non ít.
- Lớp học đông, đã biết chữ cái còn rất ít.
- Học sinh chưa quen với môi trường học tập ở trường Tiểu học, còn rụt
rè.
- Cơ sở vật chất còn thiếu.

Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
-8-


Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1
Chương II
THỰC TRẠNG DẠY HỌC
I. Tình hình – Kết quả khảo sát điều tra
Vào đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát nhỏ trong lớp 1B Trường Tiểu
học Hướng Phùng với nội dung sau:
- Kiểm tra sự phát triển về thể chất của các em.
- Nhận xét về sự quan tâm của gia đình đối với việc học của con em.
- Tìm hiểu số học sinh đi học mầm non và số học sinh không đi học mầm
non hoặc đi học không đều, tìm hiểu lý do học sinh không đi học mầm non.
- Kiểm tra sự sự nắm bắt, nhận diện chữ cái đã học trong trường mầm
non.
- Kiểm tra học sinh đã biết hoặc chưa biết cầm bút.


Kết quả thu được như sau :
- Một số em yếu về thể chất, bé nhỏ hơn so với các bạn bình thường kèm
theo phát triển chậm về trí nhớ, học trước quên sau, chậm tiến.
- Phụ huynh trong lớp là người dân tộc thiểu số, hầu hết không biết chữ
chưa quan tâm đến việc học tập của con em mình, chưa tạo điều kiện tốt để kèm
cặp con em mình học bài, đọc bài ở nhà.
- Tổng số học sinh trong lớp là 30 em:
Học sinh không đi học mầm non: 10
Học sinh đi học không đều : 13 em
Học sinh đi học đều : 7 em .
- Kết quả khảo sát nhận diện chữ cái :
+ Tổng số : 30 em
+ Không biết chữ cái : 18 em
+ Biết từ 3 - 5 chữ : 07 em
+ Nhận biết các chữ : 5 em
Như vậy tỉ lệ học sinh nhận diện chưa chắc chắn, chính xác bảng chữ cái
quá thấp nên dẫn đến kết quả học tập của học sinh sẽ không cao. Một trong
những lí do dễ thấy là vì các em chưa được sự quan tâm của gia đình, các em
chưa chăm chỉ học. Vì vậy, chúng ta phải biết được đặc điểm tình hình của từng
đối tượng phát huy những mặt tích cực của học sinh. Biết lựa chọn phương
pháp, hình thức tổ chức tiết học sao cho các em luôn cảm giác thoải mái thích
thú, thích được tham gia học một cách tự nguyện không gò ép. Giáo viên phải
gần gũi, yêu thương, động viên kịp thời để học sinh thích học. Nhận thức được
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
-9-


Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1
điều này và thấy rõ được những khó khăn cơ bản tôi đã thực hiện một số biện
pháp. Rèn kĩ năng đọc cho các em học sinh lớp 1 để các em có điều kiện học tốt


cùng các bạn trong lớp.
II. Những phương pháp giáo viên thường sử dụng trong phần rèn đọc:
Hiện nay ở Tiểu học, về vấn đề rèn đọc cho học sinh, giáo viên sử dụng
phương pháp dạy học cụ thể là: Phương pháp làm mẫu, phương pháp luyện đọc
theo mẫu, phương pháp luyện tập củng cố, phương pháp hỏi đáp.
Sau một thời gian tiến hành tìm hiểu điều tra thực trạng, tôi rút ra một số
kết luận sau:
* Thời lượng rèn đọc có vị trí quan trọng ở Tiểu học.
* Giáo viên nhận thức được ý nghĩa của việc rèn đọc và nhiệm vụ chính
của dạy đọc.
* Trong giờ học môn Tiếng Việt giáo viên còn làm mẫu nhiều mà chưa để
các em tự phát hiện ra cách đọc.
* Trong giờ học nhất là khi có người dự giờ thì giáo viên còn ít chú ý đến
học sinh đọc chưa tốt vì đối tượng này thường đọc chậm, làm mất thời gian, làm
giảm tiến độ của tiết dạy.

Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
- 10 -


Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1
Chương III
ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
Từ việc nghiên cứu cơ sở thực tiễn, cơ sở lý luận và thực trạng của việc
dạy- học đọc hiện nay thì chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu dạy đọc ở Tiểu
học. Do vậy để khắc phục những hạn chế, phát huy những ưu điểm hiện có ở
thực tế. Tôi xin mạnh dạn đưa ra một số biện pháp rèn đọc để nâng cao kĩ năng
đọc cho học sinh lớp 1.
I. Biện pháp tác động giáo dục
- Từ những thực trạng trên tôi đã tiến hành họp phụ huynh học sinh đề


nghị nhắc nhở con em đi học đầy đủ, yêu cầu thống nhất trang bị đủ sách vở, đồ
dùng cần thiết phục vụ cho môn học.
- Yêu cầu, đề nghị phụ huynh nhắc nhở uốn nắn kịp thời việc học và làm
bài ở nhà của học sinh.
- Đồng thời mượn đồ dùng học tập, sách cho học sinh có hoàn cảnh khó
khăn.
- Xây dựng đôi bạn cùng tiến.
- Xây dựng nề nếp kiểm tra bài 15 phút đầu giờ của từng bàn sau đó tặng
cờ thi đua cho các nhóm.
- Cùng với tổ chuyên môn thảo luận về ý tưởng các biện pháp rèn đọc cho
học sinh của mình.
- Chuẩn bị bài dạy thật kĩ, có kiến thức phù hợp cho các đối tượng học
sinh, lựa chọn các phương pháp, hình thức dạy học phù hợp tạo hứng thú cho
học sinh.
- Trong quá trình rèn đọc giáo viên cần rèn luyện một cách linh hoạt các
phương pháp khác nhau để phù hợp với đặc trưng của phân môn và phù hợp với
nội dung của bài dạy. Quá trình hướng dẫn học sinh rèn đọc trước hết giáo viên
phải sử dụng phương pháp làm mẫu. Nghĩa là giáo viên làm mẫu cho học sinh
nghe, yêu cầu giọng đọc của giáo viên phải chuẩn, diễn cảm thể hiện đúng nội
dung, ý nghĩa của bài học để học sinh bắt trước đọc theo. Sau đó giáo viên phải
kết hợp phương pháp luyện đọc theo mẫu, luyện đọc đúng, đọc chính xác các
phụ âm đầu, âm chính, âm cuối, dấu thanh.
- Ngoài ra để phần rèn đọc đạt kết quả tốt thì cần phải có các yếu tố khác
như cơ sở vật chất đầy đủ, đồ dùng học tập. Bên cạnh đó giáo viên phải luôn tích
cực tự học, tự rèn luyện để nâng cao trình độ năng lực. Nếu phối hợp các yếu tố
trên sẽ giúp học sinh đọc đúng, diễn cảm tốt. Từ đó thể hiện được nội dung của
bài học, thấy được cái hay, cái đẹp của cuộc sống qua từng bài học.
II. Phần học các nét chữ cơ bản:
Ngay sau những buổi đầu rèn nề nếp, tôi cho học sinh học các nét chữ cơ
bản. Tôi đã dạy thật kỹ, thật tỉ mỉ tên gọi và cách viết các nét chữ đó. Để cho


Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
- 11 -


Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1
học sinh dễ hiểu, dễ nhớ những nét chữ cơ bản tôi phân theo cấu tạo các nét có
tên gọi và cấu tạo gần giống nhau thành từng nhóm để học sinh dễ nhận biết và
so sánh. Dựa vào các nét chữ cơ bản này mà học sinh phân biệt được các chữ
cái, kể cả các chữ cái có hình dáng cấu tạo giống nhau.
Ví dụ: Các nét chữ cơ bản và tên gọi.
Nhóm 1

Nét sổ thẳng
Nét ngang
Nét xiên phải (giống dấu thanh
huyền)
Nét xiên trái (giống dấu thanh sắc)

Nhóm 2

Nét móc xuôi (chữ l)
Nét móc ngược (chữ n, m)
Nét móc hai đầu (chữ h, p, ph)

Nhóm 3

Nét cong hở phải (chữ c)
Nét cong hở trái (chữ x)
Nét cong kín (chữ o, ô, ơ)


Nhóm 4

Nét khuyết trên (chữ h, l, b)
Nét khuyết dưới (chữ g, y)
Nét thắt (chữ b, v, r)
Nét khuyết, có nét thắt ở giữa
(chữ k)

Tôi chuẩn bị những đoạn dây dù đủ màu sắc làm hình nét chữ để giới
thiệu và khuyến khích học sinh cùng làm theo, giúp các em dễ thuộc các nét hơn
vì đã được trải nghiệm. Cho học sinh đọc tên gọi các nét nối tiếp nhau, đọc xuôi
đọc ngược nhiều lần để các em nhớ. Để khai thác vốn hiểu biết sẵn có và khắc
sâu kiến thức của các em bằng cách tổ chức trò chơi:” Đoán nét chữ” trong hoạt
động củng cố. Dựa vào các nét cơ bản này mà học sinh phân biệt được các chữ
cái và thu hút các em tập trung hơn. Ví dụ: Đố con, chữ a gồm có nét gì? Chữ a:
nét cong kín và nét móc. Đố con, chữ gì có nét cong kín? Chữ o (ô,ơ). Tôi đã
tuyên dương các em trả lời tốt bằng những bông hoa hay tràng pháo tay thật to.
Vì các em rất thích được cô, thầy khen dưới mọi hình thức khi trả lời đúng, nhất
là các em đọc chưa tốt hoặc đọc chậm đó là sự khích lệ rất lớn với các em. Đây
là bài học đầu tiên trong phần Học vần nên cần tạo cho các em tâm thế học tập
thoải mái, gần gũi, gây sự hứng thú.
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
- 12 -


Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1
III. Phần học âm:
Sau khi học sinh đã học thật thuộc tên gọi và cấu tạo các nét chữ cơ bản
một cách vững vàng thì tiếp theo là phần học âm (chữ cái). Giai đoạn học chữ
cái là giai đoạn vô cùng quan trọng. Các em có nắm chắc từng chữ cái thì mới


ghép được các chữ vào với nhau để thành tiếng, các tiếng đơn ghép lại với nhau
tạo thành từ và thành câu.
Giai đoạn này tôi dạy cho các em phân tích từng nét chữ cơ bản trong
từng chữ cái và nếu chữ cái đó có cùng một tên gọi song có nhiều kiểu viết khác
nhau hay gặp trong sách báo như: chữ a, chữ g thì tôi phân tích cho học sinh
hiểu và nhận biết đó là: chữ a, chữ g để khi gặp kiểu chữ đó trong sách báo các
em dễ hiểu và không bị lúng túng.
Ví dụ:
Âm: a - a , g - g.
+ Âm a gồm hai nét: nét cong khép kín nằm bên trái và nét sổ thẳng nằm bên
phải; chữ a cũng gồm nét cong khép kín và nét móc ngược.
+ Âm g gồm : nét cong khép kín và nét móc dưới.
Từ việc học kỹ cấu tạo âm tạo bởi các nét chữ cơ bản thật kỹ và tỉ mỉ sẽ giúp
học sinh phân biệt được sự khác nhau cả về cấu tạo và tên gọi của bốn âm sau:
d; b; p; q.
Ví dụ:
+ Âm d gồm hai nét: nét cong khép kín nằm ở bên trái và nét sổ thẳng nằm bên
phải. Đọc là: “dờ”.
+ Âm b gồm hai nét: nét cong khép kín nằm ở bên phải và nét sổ thẳng nằm ở
bên trái. Đọc là: “ bờ”. Sang phần âm ghép nghĩa là âm gồm hai âm đơn ghép lại
với nhau. Tôi cho học sinh sắp xếp các âm có âm h đứng sau thành một nhóm để
nói lên được sự giống nhau và khác nhau của các âm đó.
Ví dụ :
+ Các âm ghép: c + h = ch , n + h = nh , t + h = th , k + h = kh , g + h = gh , ng +
h = ngh.
+ Còn lại các âm: gi, tr, q, ng, tôi cho học thật kỹ cấu tạo và cách ghép chữ.
+ Phân từng cặp: ch – tr , ng – ngh , c – k , g – gh , nh – d để phát âm chính xác
và viết chính tả phân biệt.
Trong khi luyện phát âm tôi chú ý luyện phát âm đúng cho các em ở
Hướng Phùng thường phát âm sai s với x, các dấu thanh. Ví dụ : Âm s thì kỉ


thuật phát âm là uốn đầu lưỡi về phía vòm, hơi thoát ra xát mạnh, không có
tiếng thanh – tôi làm mẫu nhiều lần cho các em, âm x thì khi phát âm đầu lưỡi
tạo ra với môi răng một khe hẹp, hơi thoát ra xát nhẹ, không có tiếng thanh. Với
phương pháp như vậy với các âm mà các em hay nhầm lẫn.
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
- 13 -


Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1
Trong các tiết học, các bài học tôi luôn thay đổi hình thức kiểm tra các
âm, chữ cái của học sinh thông qua trò chơi, các em tự đố nhau khi trò chuyện
và lúc đó tôi cũng là một thành viên tích cực trong hoạt động này (Đặc biệt là
các tiết ôn tập). Từ đó, củng cố thêm kiến thức về từ ngữ, câu văn cho trẻ tránh
sự đơn điệu của các bài ôn tập trong sách. Một hình thức mà tôi cảm thấy rất
tâm đắc đó là viết phiếu, có thể phiếu chỉ là một từ gồm 2 hoặc 3 tiếng cũng có
thể là một câu văn. Song những từ và câu văn này phải có nghĩa và mang tính
giáo dục và rất gần gũi với các em.
Ví dụ:
Trường, lớp, bạn, chăm học, ngoan ngoãn, học giỏi, bút chì, thước kẻ, bàn ghế,
vở ô li, sạch sẽ, vệ sinh, bố mẹ, ông bà, anh chị, em bé, cô giáo, thầy giáo ……
Lớp học của Lê rất vui. Ngày ngày, các bạn rất chăm học. Cô giáo Lê hài lòng
lắm.
Cả trong những khi kiểm tra bài có thể là bảng con cũng có khi là phiếu
cho học sinh lên bốc thăm rồi đọc lên. Bảng và phiếu là những từ chỉ có âm, vần
mới học xong, từ đó không lấy trong sách ra.
Ví dụ :
Muốn kiểm tra vần eo, ao thì tôi viết bảng con có các từ không có trong
sách như: cái kẹo, theo dõi, chèo bẻo, kéo co, chào hỏi, cao to, bà lão,….tương
tự như thế với các bài khác.
Nếu học sinh đã thuộc mặt chữ rồi thì bất kỳ một từ mới nào các em cũng


đọc được.
Đến khi học sinh viết chính tả vào bảng con, tôi cũng không đọc cho học
sinh viết những tiếng và từ đã có sẵn trong bài. Thông qua phần xây dựng tiếng,
từ mới trẻ được hiểu biết thêm nhiều từ và ý nghĩa của các từ mà các em tìm
được của hôm trước nay viết vào bảng. Do đó phong trào tìm tiếng, từ mới học
sinh rất hào hứng và phấn khởi tham gia sôi nổi nhiệt tình. Những đọan văn hay
bài văn mang tính chất:
- Cung cấp kiến thức về âm, vần, tiếng.

Ví dụ:
o

a

c

d

đ

/

\

?

~

.


giỏ đỏ có cà.
- Cung cấp vốn từ, câu phong phú.
Ví dụ:
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
- 14 -


Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1
U

ư

y

n

m

l

b

Dì Ly là y tá ở tổ y tế.
Bà Tư bế bé Lệ đi từ từ.
Bố Tú đi mô tô đỏ.
Mẹ Na mổ cá mè.
* ng, ngh, nh,

th.


Má Nga là ca sĩ .
Ba Tú đi xe mô tô về nhà cô Thu.
Bé Nhã khệ nệ bê ghế gỗ gụ ra ngõ để bà nghỉ.
Để rèn kĩ năng sống cho học sinh, thông qua hoạt động luyện nói tôi vận
dụng các vần, tiếng, từ đã học để tạo thành những câu văn, đoạn văn có nội dung
mang tính giáo dục đạo đức, tư tưởng cho học sinh theo chủ điểm các đợt thi
đua như kỷ niệm các ngày lễ: 8/3, 26/3, 15/5, 19/5,20/ 11, 22/12... để xây dựng
bài cho học sinh đọc và nói.
IV. Phần học vần:
Sang đến phần học vần, học sinh đã được học chữ hoa nên trong các đoạn
văn hay bài văn tôi đã luyện cho học sinh biết nhận biết và đọc chữ hoa sau dấu
chấm, các danh từ riêng tên gọi.
- Bài: Ôn các vần có âm m cuối.
am ăm âm om ôm ơm em êm im um.
+Bà Tâm đã già quá nên đi lom khom. Khi bà bị ốm mẹ cho Thêm đến thăm bà
và đem cam đến. Bà nhận quà và cảm ơn bố mẹ Thêm. Bà còn khen em lớn quá.
+Hôm qua nghỉ học, mẹ cho Thêm đi xem thú.Thêm nhìn rõ chú nhím nằm thu
lu bên mẹ nó .
+Hôm nay trời rất rét, mẹ nhắc Nga đi học phải mặc thêm áo ấm.
- Vì thường xuyên phân loại chất lượng học tập của học sinh nên tôi đã
chia chất lượng của lớp ra làm 4 nhóm:
+ Nhóm đọc tốt
+ Nhóm đọc tương đối nhưng tốc độ còn chậm
+ Nhóm đọc được một số chữ, vần
+ Nhóm chưa đọc được .
- Và phân công:
+ Nhóm đọc tốt kèm nhóm chưa đọc được.
+ Nhóm đọc tương đối nhưng tốc độ còn chậm – kèm nhóm đọc được một số
chữ, vần.
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng


- 15 -


Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1
- Trong kế hoạch bài dạy tôi chuẩn bị các kiến thức phù hợp cho cả 4 đối
tượng.
Hàng ngày tôi giao nhiệm vụ cụ thể cho nhóm học sinh đọc tốt. Những ngày
đầu, tôi trực tiếp kiểm tra học sinh đọc tốt, biết được các em đã đọc trôi chảy,
lưu loát rồi thì khi nhận được nhiệm vụ là các em sẽ kiểm tra bạn một cách
chính xác. Từ những điều học sinh đọc tốt tiếp thu được các em sẽ in sâu và
truyền thụ lại cho bạn. Lúc đó, nhóm học sinh đọc được một số chữ, vần và
nhóm chưa đọc được dễ tiếp thu hơn. Bởi vì ông cha ta đã dạy:
" Học thầy không tày học bạn ".
Đúng thế trẻ dạy trẻ ngôn ngữ của trẻ dễ hòa đồng với nhau. Tuy nhỏ
song trẻ cũng có lòng tự trọng thấy bạn hơn và lại dạy mình thì cũng phải cũng
cố gắng học để đỡ thua kém bạn. Từ đó, chất lượng học sinh trong tương đối
đồng đều. Song không phải giao phó hoàn toàn cho học sinh đọc tốt mà tôi vẫn
thường xuyên kiểm tra và kèm cặp học sinh đọc được một số chữ, vần và chưa
đọc được. nhằm củng cố cho các em về kiến thức một cách vững vàng hơn.
V. Phần tập đọc:
Đây là giai đoạn khó khăn đối với học sinh. Nhất là đối tượng học sinh
đọc chưa tốt. Học sinh đã vững phần chữ cái, nắm vững phần vần chỉ nhìn vào
bài là các em đọc được ngay tiếng, từ hoặc câu khá nhanh vì khả năng nhận biết
tốt. Còn học sinh đọc chưa tốt các em nhận biết còn chậm, chưa nhìn chính xác
vần nên ghép tiếng rất chậm, ghép tiếng chậm dẫn đến đọc từ chậm và đọc câu
rất khó khăn. Vì thế đối với các học sinh này, sang phần tập đọc giáo viên cần
hết sức kiên nhẫn, giành nhiều cơ hội tập đọc cho các em giúp các em đọc bài từ
dễ đến khó, từ ít đến nhiều. giáo viên tránh nóng vội để đọc trước cho các em
đọc lại dẫn đến tình trạng đọc vẹt và tính ỷ lại thụ động của học sinh. Giáo viên
nên cho học sinh nhẩm đánh vần lại từng tiếng trong câu, đánh vần xong đọc


trơn lại tiếng đó nhiều lần để nhớ sau đó nhẩm đánh vần tiếng kế tiếp lại đọc
trơn tiếng vừa đánh vần rồi đọc lại từng cụm từ.
VD: Dạy bài tập đọc Trường Em (sách giáo khoa Ttiếng Việt 1)
* Học sinh chưa đọc được tiếng’’ trường’’, giáo viên nên cho các em
đánh vần tiếng ‘’trường’’ bằng cách phân tích như sau:
GV: Tiếng trường gồm có âm gì và ghép với vần gì? Có dấu thanh gì?
HS: Tiếng trường gồm có âm tr ghép với vần ương và dấu thanh huyền.
GV: Vậy đánh vần tiếng trường thế nào?
HS: trờ - ương – trương – huyền – trường.
GV: Đọc trơn tiếng này thế nào?
Hs: Trường.
Rồi cho học sinh đọc nối tiếp: Trường em.
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
- 16 -


Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1
* Học sinh không đọc được tiếng trường
GV nên cho học sinh ôn lại cấu tạo vần ương trong tiếng trường.
GV: Vần ương gồm có mấy âm?
HS: Vần ương gồm có 2 âm. Âm đôi ươ và âm ng.
GV: Vị trí các âm trong vần thế nào?
HS: Âm đôi ươ đứng trước, âm ng đứng sau.
GV: Đánh vần và đọc trơn vần ương.
HS: ươ- ng- ương, ương
GV: Thêm âm tr vào trước vần ương và dấu huyền trên vần ương. Ta
đánh vần, đọc trơn tiếng thế nào?
HS: Trờ - ương – trương- huyền – trường, trường
Và sau mỗi lần đánh vần, cho học sinh đọc trơn lại tiếng vừa đành vần nhiều lần
để khắc sâu vào trí nhớ học sinh.


VI. Phương pháp và hình thức tổ chức dạy học
Có rất nhiều phương pháp và hình thức để áp dụng cho một tiết dạy nhằm
đạt được một kết quả tốt cho giờ học. Tuy nhiên không một phương pháp nào
được coi là vạn năng, giáo viên nên sử dụng linh hoạt và đồng loạt nhiều
phương pháp để giúp học sinh có kĩ năng đọc ngày càng tốt hơn. Sau đây là một
số phương pháp thường được áp dụng trong giờ học:
* Phương pháp trực quan
Phương pháp này đòi hỏi học sinh được quan sát vật thật, tranh ảnh tự
nhiên hay việc làm mẫu của giáo viên như cho các em nghe cô phát âm mẫu,
đánh vần mẫu, đọc mẫu.
Ví dụ : Khi dạy học sinh học âm l, giáo viên phải phát âm mẫu và cho học
sinh quan sát khuôn miêng để các em ‘’bắt chước ‘’ phát âm mới đúng được.
* Phương pháp đàm thoại, vấn đáp
Giáo viên đưa ra nhiều câu hỏi để học sinh trả lời nhằm phát hiện sự hiểu
biết của các em hoặc để gợi mở giúp các em phát hiện cách đọc.
VD: - Chữ này là chữ gì? ( chữ a, o,b,c, d….)
- Âm ch đứng trước, vần anh đứng sau, em đánh vần thế nào?( chờ- anhchanh). Khi sử dụng phương pháp này, giáo viên nên dùng ngôn ngữ dễ nghe,
nhẹ nhàng, tránh cáu gắt khi các em chậm nhớ, chậm hiểu. Hãy ôn tồn dẫn dắt
học sinh từng bước một để dạy các em đọc từng chữ, từng tiếng, từng câu trong
mỗi ngày.
* Phương pháp quan sát, động viên khen thưởng học sinh

Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
- 17 -


Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1
Trong tiết dạy tôi thường chú ý đến học sinh ít nói, thụ động, học sinh đọc
chậm, đọc chưa tốt để gọi các em thường xuyên đọc bài. Đối với học sinh có kĩ
năng đọc tốt tôi thường khích lệ, khen ngợi để các em phấn khởi hơn. Còn đối


với học sinh kĩ năng đọc chưa tốt tôi nhẹ nhàng an ủi động viên: “ Cố lên, rồi
các em sẽ đọc tốt như các bạn nếu các em cố gắng đọc bài nhều ở lớp cũng như
ở nhà.” Trong tiết dạy tập đọc, sau khi cho cả lớp đọc xong, tôi đến tận chỗ ngồi
của học sinh đọc chưa tốt để hướng dẫn đọc từng tiếng, từ học sinh chưa đọc
được. Tôi giành nhiều thời gian cho đối tượng này hơn. Cùng đọc bài với các em
trong giờ ra chơi nhưng vẫn để cho các em có thời gian thư giãn, nghỉ ngơi. Khi
các em có biểu hiện tiến bộ tôi thường khen thưởng các em bằng những phần
quà nhỏ như cuốn vở, viên phấn màu, cây bút đẹp vv… để các em thích thú và
cố gắng hơn.
* Phương pháp học nhóm
Ngay từ đầu năm học qua khảo sát, phân loại học sinh trong lớp tôi bố trí
cho học sinh đọc tốt kèm học sinh đọc chưa tốt, em đọc tốt ngồi gần em đọc
chưa tốt để giúp bạn học tập, ưu tiên những học sinh đọc chưa tốt được ngồi ở
dãy bàn thứ nhất và thứ hai trong lớp. Trong từng giờ học lúc nào tôi cũng gọi
các em đọc bài nhiều hơn những bàn học sinh khác, gọi đọc theo nhóm đôi
( trong cùng bàn ) để học sinh đọc chưa tốt đọc theo học sinh đọc tốt và học sinh
đọc chưa tốt cũng được luyện tập nhiều hơn.
* Phương pháp tổ chức các trò chơi
Trong giờ học vần, tôi hay lồng ghép các trò chơi nhỏ để cả lớp cùng
tham gia.
VD Trò chơi Đọc nhanh – Đọc đúng
Giáo viên ghi một số từ vào các mảnh bìa và đưa ra cho học sinh đọc. Bạn
nào đọc nhanh, đọc đúng 3 từ liên tiếp sẽ được cả lớp khen là giỏi và tôi thường
hay chọn các học sinh đọc chưa tốt để đọc nhiều hơn nhằm giúp các em cố gắng
đọc để thi đua và tạo cho các em khả năng đọc nhanh, đọc đúng.
Hay trò chơi Chỉ nhanh – Chỉ đúng
Tôi gọi một nhóm 3 học sinh lên bảng 1 em (là học sinh đọc tốt) đọc cho
hai học sinh đọc chưa tốt chỉ vào âm, vần, tiếng, từ do bạn đọc. Trò chơi này học
sinh rất thích và lớp học cũng sôi nổi.
* Phương pháp nhận xét nêu gương.


Để nâng dần chất lượng học sinh trong lớp, muốn cho trình độ học sinh
đồng đều vào cuối năm học, tôi thường trò chuyện với học sinh đọc chưa tốt để
giúp các em cố gắng hơn cho kịp bằng các bạn. Tôi cho các em nhận xét các bạn
đọc tốt trong lớp.
VD: Bạn Điểm, bạn Thu, bạn Hằng,bạn Nguyệt,… đọc tốt, học tốt vì các
bạn ấy rất chăm chỉ đọc bài và đọc rất nhiều ở nhà. Ở lớp các bạn cũng rất cố
gắng đọc bài và luyện tập thêm để ngày càng đọc tốt đọc hay hơn. Các bạn luôn
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
- 18 -


Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1
thi đua với nhau xem ai đọc nhiều hơn, ai đọc đúng hơn và ai đọc hay hơn. Các
em cũng sẽ đọc tốt như các bạn ấy nếu có cố gắng đọc nhiều, như các bạn : Đọc
chưa thông, đọc chưa nhanh thì đánh vần, đọc nhẩm, nhẩm xong đọc to lên và
cứ thế mà đọc mãi, đọc đi đọc lại, đọc đến khi nào nhìn vào chữ là đọc được
ngay mới thôi.
VII. Những phương tiện dạy học:
Trong từng tiết dạy môn Tiếng Việt, để giúp học sinh tích cực và ham học
giáo viên cần sử dụng linh hoạt và phù hợp các phương tiện hỗ trợ tiết dạy như
sau:
Sử dụng tranh ảnh trong sách giáo khoa là chủ yếu.
Tận dụng những vật thật, tranh ảnh có sẵn trong thực tế để các em quan
sát tìm hiểu.
Sử dụng thường xuyên bộ đồ dùng học Tiếng Việt của học sinh và giáo
viên.
Sưu tầm thêm một số tranh ảnh, mẫu vật có liên qua đến bài dạy.
Ứng dụng các hình ảnh bài giảng điện tử giảng dạy trong tiết học.
Kết quả cụ thể lớp 1B:
Kết quả - Giai đoạn



Số học sinh đọc chưa tốt,
đọc còn chậm
(%)

Số học sinh đọc đúng,
đọc tốt (%)

Đầu năm

83,3 %

16,7%

Cuối học kì I

6,7 %

93,3%

Căn cứ vào những kết quả thu được ở trên tôi nhận thấy việc áp dụng một
số biện pháp ở chương III vào việc rèn đọc cho học sinh lớp 1 đã nâng cao hiệu
quả của giờ dạy, phát huy được tính chủ động sáng tạo và tạo được sự hứng thú
say mê của học sinh.

Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
- 19 -


Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1


C. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Kết luận
Qua quá trình nghiên cứu thực nghiệm rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1.
Tôi thấy rằng đây là phương pháp và hình thức nhằm tích cực hoá hoạt động của
học sinh vì khi thực hiện phương pháp và hình thức này học sinh hoàn toàn chủ
động tự giác sáng tạo và tích cực tiếp thu tri thức mới. Đây là mục đích của quá
trình dạy học hiện nay và hoàn toàn phù hợp với đặc điểm phát triển sinh lý của
học sinh lớp 1.

Để học sinh đọc ngày càng tiến bộ hay có kĩ năng đọc tốt giáo viên cần áp
dụng linh hoạt các biện pháp trong phần rèn đọc. Tuỳ từng bài giáo viên chọn
các biện pháp phù hợp để làm sao đạt kết quả cao nhất. Muốn vậy người giáo
viên phải làm được những công việc sau:
Giáo viên chủ nhiệm lớp phải nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của học sinh,
phải yêu học sinh như chính con mình, biết rõ mặt mạnh, mặt hạn chế của học
sinh để bồi dưỡng, luyện tập.
Trong từng tiết dạy giáo viên phải xác định khối lượng kiến thức cần truyền
thụ cho học sinh thông qua mục đích, yêu cầu của bài dạy. Khi giảng dạy cần
lựa chọn nhiều phương pháp phù hợp, vận dụng việc đổi mới phương pháp trong
giảng dạy đó là lấy học sinh làm trung tâm, phải khơi gợi cho học sinh tính chủ
động, ham thích học, đọc bài.
Việc chuẩn bị đồ dùng dạy học cũng được coi trọng hàng đầu và nên thường
xuyên sử dụng thiết bị dạy học. Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc giới
thiệu tranh ảnh, trò chơi để học sinh hào hứng học tập.
Lập kế hoạch cho mình ngay từ đầu, quyết tâm giữ vững tinh thần tránh
nhiệm của mình với học sinh. Hãy cùng học, cùng đọc với các bạn nhỏ ở mọi
lúc mọi nơi, mọi môn học, không nên hời hợt, cho qua khi các em đọc sai lỗi.
Với học sinh lớp 1 cần tập cho các em thói quen tốt: Đọc đúng, nhìn kỹ, cố
gắng, nhẫn nại, chịu khó vv… để tập cho các em nề nếp tốt trong học tập ở hôm
nay và mai sau.


Giáo viên cần dẫn dắt học sinh đọc một cách nhẹ nhàng, dí dỏm, tạo cho các
em sự tin cậy, yêu mến cô giáo, tinh thần vui vẻ, hồn nhiên để học tập.
Tuy nhiên, đều quan trọng hơn cả vẫn là lòng yêu trẻ, sự kiên trì, nhẫn nại và
ý thức trách nhiệm của một người thầy giáo, cô giáo trực tiếp gần gũi các em
hàng ngày. Chúng ta luôn ý thức trách nhiệm của mình dạy học sinh phải tiến
bộ, sau một năm học các em phải đọc được và đạt được mức chuẩn đến trên
chuẩn.
II. Kiến nghị
Trên thực tế dạy học ở trường Tiểu học Hướng Phùng, tôi có một số đề
xuất sau:
Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
- 20 -


Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1
- Để giúp giáo viên thực hiện soạn giảng đạt kết quả cao thì các cấp cần
cung ứng các tài liệu tham khảo kịp thời, tranh ảnh về môn Tiếng Việt để giờ
dạy của giáo viên được hoàn thiện hơn.
- Tạo điều kiện cho giáo viên được giao lưu học tập, bố trí nhiều tiết dạy
mẫu...để giáo viên vận dụng một cách linh hoạt trong việc giảng dạy với từng
đối tượng học sinh.
- Các cấp quản lý giáo dục cần tạo cơ hội và động viên kịp thời khi giáo
viên thực hiện đổi mới phương pháp dạy học dù là nhỏ nhất.
- Nhà trường, các tổ chức Đoàn - Đội cùng kết hợp với GVCN để vận
động học sinh đi học đảm bảo tỉ lệ chuyên cần để việc luyện đọc của các em
được diễn ra liên tục và thường xuyên.
Trên đây là đề xuất sáng kiến của tôi. Tôi rất mong được sự đóng góp ý
kiến của các đồng nghiệp, của BGH nhà trường và của cấp trên.

Hướng Phùng, ngày 6 tháng 2 năm 2015


XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của tôi viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Nguyễn Thị Thuý Phụng

Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
- 21 -


Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1
ĐÁNH GIÁ CỦA HĐKH TRƯỜNG TH HƯỚNG PHÙNG
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
ĐÁNH GIÁ CỦA HĐKH PHÒNG GD&ĐT HƯỚNG HÓA
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................


.................................................................................................................................

Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
- 22 -


Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu bồi dưỡng Giảng viên cốt cán cấp tỉnh, thành phố môn Tiếng Việt
Lớp 1, Nhà xuất bản Hà Nội
2. Bài giảng Phương pháp dạy học Tiếng Việt.Người biên soạn: Tiến sĩ Nguyễn
Thị Thanh - Giảng viên trường Đại học sư phạm Đà Nẵng.
3. Bài giảng Phương pháp dạy học Tiếng Việt. Người biên soạn: Thạc sĩ Bùi
Thị Sanh - Giảng viên trường Đại học sư phạm Đà Nẵng.
4. Hỏi - đáp về dạy học Tiếng Việt 1.2.3.4 Của Nguyễn Minh Thuyết chủ biên.
Nhà xuất bản Giáo dục 2004-2005.
5. Chương trình Tiểu học. Nhà xuất bản giáo dục 2002
6. Sách giáo viên Tiếng Việt 1. Nhà xuất bản giáo dục 2002

Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
- 23 -


Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1

Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy Phụng – Trường Tiểu học Hướng Phùng
- 24 -




Sáng kiến kinh nghiệmMột số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1

Phần thứ I: Phần mở đầu

Những vấn đề chung

1. Lý do chọn đề tài

Môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học có nhiệm vụ vô vùng quan trọng, đó là hình thành 4 kỹ năng: Nghe – nói - đọc – viết cho học sinh. Tập đọc là một phân môn của chương trình Tiếng Việt bậc Tiểu học. Đây là phân môn có vị trí đặc biệt trong chương trình vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển kỹ năng đọc, một kỹ năng quan trọng hàng đầu của học sinh ở bậc Tiểu học. Kỹ năng đọc có nhiều mức độ: đọc đúng, đọc nhanh (lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức (hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Khi học sinh đọc tốt, viết tốt thì các em mới có thể tiếp thu các môn học khác một cách chắc chắn. Từ đó học sinh mới hoàn thành được năng lực giao tiếp của mình. Những kỹ năng này không phải tự nhiên mà có. Nhà trường phải từng bước hình thành và trường tiểu học nhận nhiệm vụ đặt viên gạch đầu tiên. Nên việc dạy học phải có định hướng, có kế hoạch từ lớp 1 đến lớp 5.

Đặc biệt đối với học sinh lớp 1 - Lớp đầu cấp - việc dạy đọc cho các em thật vô cùng quan trọng, bởi các em có đọc tốt được ở lớp 1 thì khi học các lớp tiếp theo, các em mới nắm bắt được những yêu cầu cao hơn của môn Tiếng Việt. Việc dạy đọc ở lớp 1 cũng quan trọng bởi từ chỗ các em còn phải đọc đánh vần từng tiếng đến việc đọc thông thạo được một văn bản là việc tương đối khó với các em, mà mục tiêu của giờ dạy Tiếng Việt là phải hướng đến giáo dục học sinh yêu tiếng Việt, bằng cách nêu bật sức mạnh biểu đạt của Tiếng Việt, sự giàu đẹp của âm thanh, sự phong phú của ngữ điệu trong việc biểu đạt nội dung. Thế nhưng hiện nay, ở trường Tiểu học, mặt âm thanh của ngôn ngữ, đặc biệt ngữ điệu chưa được chú ý đúng mức. Đó là một trong những lý do cho học sinh của chúng ta đọc và nói chưa tốt. Đó cũng là ý do khiến cho trong nhiều trường hợp, học sinh không hiểu đúng văn bản được đọc.

Cũng như nhiều giáo viên lớp 1 khác, tôi suy nghĩ rất nhiều về cách dạy tập đọc ở lớp 1. Đặc biệt là rèn cho học sinh không những chỉ đọc thông được văn bản, mà còn phải đọc đúng văn bản được đọc.Với lòng ham thích và mong muốn được tìm hiểu, học hỏi thêm kinh nghiệm từ thực tế nhà trường nên tôi đã chọn vấn đề “Một số biện pháp luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc” làm sáng kiến kinh nghiệm của mình để góp phần giáo dục nhỏ bé vào sự nghiệp giáo dục chung của huyện nhà.

2. Mục đích của đề tài.

Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng về đọc đúng tiếng, đọc liền tiếng trong từ, trong câu, đọc đúng ngữ điệu, biết cách ngắt nghỉ hơi trong văn bản thơ, cũng như văn bản văn xuôi của học sinh Tiểu học .............. nói riêng. Từ đó đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đọc đúng cho học sinh lớp 1.

Phần II: Nội dung nghiên cứu

1. Cơ sở lí luận

1.1 Những vấn đề về cơ sở lý luận

1.1.1. Cơ sở tâm sinh lý của trẻ

Từ những đổi mới của chương trình tiểu học, đòi hỏi phải đổi mới chương trình môn Tiếng Việt. Chương trình Tiểu học thực hiện đổi mới đồng bộ về:

- Mục tiêu giáo dục.

- Nội dung và phương pháp dạy học.

- Cách thức đánh giá học tập của học sinh.

Theo đặc trưng của môn Tiếng Việt tập trung vào sự hình thành và phát triển kĩ năng: Nghe - đọc - nói - viết, góp phần vào quá trình hình thành các giá trị mới như: Năng lực tự học, tự phát hiện và giải quyết vấn đề, tự chiếm lĩnh kiến thức và thực hành vận dụng kiến thức đó theo năng lực bản thân.

Như chúng ta đã biết môn Tiếng Việt ở trường tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ đó được thể hiện qua 4 kĩ năng: Nghe - đọc - nói - viết. Tập đọc là một phân môn của chương trình Tiếng Việt bậc Tiểu học. Đây là phân môn có vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình, vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển cho kĩ năng “đọc” nói chung và “đọc đúng” nói riêng. Một kĩ năng quan trọng hàng đầu của bậc Tiểu học. Tập đọc là môn học công cụ, là chìa khoá, là phương tiện để học sinh tiếp nhận tri thức loài người.

Tập đọc giúp các em hiểu được cái hay, cái đẹp tinh tế của nghệ thuật ngôn từ.

Tập đọc, đặc biệt là đọc đúng giúp các em học được cách nói, cách viết một cách chính xác, trong sáng có nghệ thuật, góp phần không nhỏ vào việc rèn luyện kĩ năng đọc mà còn phát triển cho học sinh vốn từ ngữ Tiếng Việt phong phú. Từ đó, các em sẽ học tốt các môn học khác, bởi đọc đúng được chính xác nội dung một vấn đề nào đó. Từ đó, các em sẽ làm Toán đúng, viết đúng và nói đúng, ...

Với tư cách, nhiệm vụ là một phân môn thực hành Tiếng Việt, đọc đúng góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển năng lực cho học sinh. Những bài tập đọc trong chương trình sách giáo khoa lớp 1 là những bài văn, bài thơ hay trong kho tàng văn học trong nước và nước ngoài. Chính vì thế mà các em có vốn văn học dân tộc.

Cũng như các môn học khác ở các cấp học, môn Tập đọc đòi hỏi giáo viên phải đổi mới phương pháp: Lấy học sinh làm trung tâm., học sinh giữ vai trò chủ đạo trong quá trình học tập. Tự tìm tòi để hiểu nội dung, phát hiện kiến thức dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn của người thầy. Với những yêu cầu quan trọng như vậy thì người thầy phải là người tổ chức linh hoạt chuẩn bị được nhiều tình huống phong phú cho học sinh.

Trong chương trình tiểu học, các bài tập đọc của lớp 1 đã được chọn lọc kĩ càng. Được sắp xếp theo từng chủ đề, nội dung các bài tập đọc cung cấp, bồi dưỡng cho các em lòng yêu thiên nhiên, yêu đất nước, yêu người lao đông, yêu người thân, ... ở xung quanh các em.

2. Những vấn đề về thực trạng

Qua nhiều năm giảng dạy ở trường tiểu học và trao đổi với đồng nghiệp tôi đã có những nhận xét chung về thực trạng dạy học như sau:

2.1. Về giáo viên

Nhìn chung giáo viên tiểu học đều rất coi trọng giờ tập đọc. Giáo viên ở các lớp đầu cấp cho rằng phần luyện đọc từ, đọc câu là quan trọng hơn còn ở các lớp cuối cấp thì cho rằng phần luyện đọc và phần tìm hiểu bài quan trong như nhau. Nhưng nhìn chung 70% giáo viên khẳng định việc luyện đọc quan trọng hơn còn về thời gian phân bố trong giờ luyện đọc thì 80% số giáo viên cho rằng thời gian luyện đọc là nhiều hơn còn 20% cho rằng thời gian của 2 phần này như nhau. Được dự các tiết tập đọc, tôi nhận thấy phần lớn giáo viên đều chú ý sửa lỗi phát âm cho học sinh, song do thời gian bị hạn chế nên việc sửa lỗi do chỉ được thực hiện lướt qua khi luyện đọc từ hoặc câu giáo viên thường chỉ cho học sinh luyện những từ và câu mà sách giáo khoa yêu cầu chứ chưa chọn lọc ra những từ hoặc câu mà học sinh của mình hay nhầm lẫn.

2. 2. Đối với học sinh

Qua nhiều năm dạy học, tôi nhận thấy ở tiểu học các em thường coi nhẹ môn tập đọc, vì các em cho rằng môn tập đọc là môn dễ không phải suy nghĩ như môn toán mà chỉ cần đọc trôi chảy, lưu loát là được. Các em cũng chưa để ý đến việc đọc của mình như thế nào. Một số ít học sinh phát âm sai do thói quen đã có từ trước hoặc do tiếng địa phương. Khi đọc các em còn hay mắc lỗi ngắt giọng, các em còn ngắt giọng để lấy hơi một cách tuỳ tiện (còn gọi là ngắt giọng sinh lý). Học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng phần lớn các em chỉ biết bắt chước cô một cách tự nhiên.

3. Một số biện pháp cơ bản để luyện đọc đúng cho học sinh lớp 1 trong các tiết tập đọc

Từ việc nghiên cứu cơ sở thực tiễn và cơ sở lý luận của việc dạy đọc là nhận thấy nếu dạy như đại trà hiện nay thì chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu dạy đọc ở tiểu học. Do vậy để khắc phục những hạn chế, phát huy những ưu điểm hiện có ở thực tế. Tôi xin mạnh dạn đưa ra một số biện pháp hướng dẫn học sinh rèn đọc đúng để nâng cao hiệu quả của giờ tập đọc ở lớp 1 nói riêng và ở tiểu học nói chung. Đó là:

3.1. Đọc mẫu:

- Bài đọc mẫu của giáo viên chính là cái đích mẫu hình thành kỹ năng đọc của giáo viên phải đảm bảo chất lượng đọc chuẩn, đọc đúng rõ ràng, trôi chảy và diễn cảm. Giáo viên yêu cầu lớp ổn định trật tự tạo cho học sinh tâm lý nghe đọc, hứng thú nghe đọc và yêu cầu học sinh đọc thầm theo. Khi đọc giáo viên đứng ở vị trí bao quát lớp, không đi lại, cầm sách mở rộng, thỉnh thoảng mắt phải dừng sách nhìn lên học sinh nhưng không để bài đọc bị gián đoạn.

- Đối với học sinh lớp 1 giai đoạn đầu (khoảng 2 ® 3 bài đầu) giáo viên chép bài đọc lên bảng rồi học sinh theo dõi cô đọc ở trên bảng, nhưng ở giai đoạn sau giáo viên nêu yêu cầu học sinh theo dõi bài ở sách giáo khoa để tạo cho các em có thói quen làm việc với sách.

3.2. Hướng dẫn đọc

Sách giáo khoa tập đọc lớp 1 chủ yếu có 2 dạng bài:

- Dạng thơ, chủ yếu là thể thơ 4 – 5 tiếng

- Dạng văn xuôi

Cụ thể là trong 42 bài đọc thì có:

- 23 bài dạng văn xuôi

- 19 bài dạng thơ

Việc hướng dẫn đọc đúng được thể hiện trong tiết 1.

3.2.1. Luyện đọc từ ngữ

Đối với lớp 1 dù ở bất kỳ dạng bài nào văn xuôi hay thơ thì trước khi luyện đọc đúng toàn bài bao giờ học sinh cũng được ôn luyện âm vần. Trong phần này các em ôn luyện vần trên cơ sở luyện đọc những từ khó, hay nhầm lẫn khi đọc có ở trong bài. Để thực hiện được tốt phần này, ngoài việc cần lựa chọn thêm những từ ngữ khác mà học sinh trong lớp mình hay nhầm lẫn hoặc phát âm sai để cho các em luyện đọc. Trong thực tế, hàng ngày lên lớp tôi vẫn thực hiện điều này.

Thí dụ: Bài “Hoa Ngọc Lan”

Sách giáo khoa chỉ yêu cầu luyện đọc các từ sau

“ Hoa lan, lá dày, lấp ló”

Khi dạy, dựa vào tình hình đọc của lớp ngoài những từ trên tôi đã tìm thêm một số từ ngữ khác cần luyện đọc đúng đó là các từ ngữ: “xanh thẫm, nụ hoa, cánh xoè ra duyên dáng, ngan ngát, toả khắp vườn, khắp nhà…” Sở dĩ tôi đã lựa chọn thêm những từ ngữ này bởi vì thực tế ở lớp tôi dạy vần còn một số ít em đọc chưa tốt, các em hay nhầm lẫn vần, phụ âm đầu và dấu thanh.

...........

Mời các bạn tải file tài liệu để xem thêm nội dung chi tiết

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh yếu - Mẫu 01

PHẦN I: MỞ ĐẦU

I. Nhận thức:

Bậc Tiểu học nói chung và khối lớp một nói riêng, vấn đề giảng dạy và truyền thụ kiến thức cho các em đó là cơ sở, là nền tảng ban đầu để học sinh tiếp tục học lên các lớp khác. Ngày nay nhà nước ta rất trọng việc giáo dục. Coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Trong những năm gần đây đã tiến hành cải cách giáo dục, đầu tư cho giáo dục nhiều tiền của và công sức để tìm ra những biện pháp mới, những phương pháp tối ưu nhằm nâng cao chất lượng dạy học lên một bước theo quá trình phát triển của xã hội. Song trong quá trình giảng dạy theo chương trình cải cách giáo dục của nền giáo dục nước nhà vẫn còn gặp nhiều khó khăn, bât cập, một số vấn đề còn chưa giải quyết được. Đặc biệt ở học sinh lớp một, các kĩ năng nghe nói đọc viết của các em còn rất hạn chế. Mà ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp vô cùng quan trọng. Vì vậy, để giúp các em rèn luyện kĩ năng đọc một cách mạch lạc, trôi chảy, tôi mạnh dạn nghiên cứu, tìm tòi, rút kinh nghiệm qua nhiều năm giảng dạy để viết lên đề tài này, nhằm góp phần nhỏ vào quá trình cải cách giáo dục, nâng cao chất lượng học sinh khối lớp một (người chủ tương lai của đất nước). Đáp ứng nguồn nhân lực kịp thời theo yêu cầu phát triển của xã hội trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước .

II. Lý do chọn đề tài:

Trong công cuộc đổi mới giáo dục và thực hiện nghiêm túc chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước nói chung của ngành giáo dục nói riêng về việc nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục.Theo thống kê trên toàn quốc nói chung và của các trường tiểu học nói riêng đã có biết bao học sinh ở lại lớp và học sinh yếu kém ngồi nhầm chỗ. Học sinh bỏ học do quá yếu không theo học được . Điều đó khiến tôi rất trăn trở làm thế nào để nâng cao chất lượng học sinh yếu kém, giúp học sinh nắm được kiến thức cơ bản ngay từ đầu lớp 1. Bởi lớp 1 là nền móng cho sự phát triển của học sinh sau này, với lớp 1 điều quan trọng nhất là đọc, viết được.Có đọc được tốt học sinh mới hiểu được nội dung văn bản và lên lớp trên học sinh mới học tốt được các môn học khác .Mà từ xưa các nhà trường nói chung trường .................. nói riêng chú trọng tổ chức bồi dưỡng thêm cho học sinh giỏi mà chưa tổ chức phụ đạo riêng cho đối tượng học sinh yếu kém chính vì lẽ đó bản thân mỗi giáo viên chủ nhiệm phải có biện pháp để phụ đạo học sinh yếu của lớp mình . Vì vậy tôi đã chọn đề tài này.

III. Cơ sở nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu

1. Phạm vi và thời gian của đề tài

2. Đề tài này được áp dụng trong tất cả các giờ tiếng việt ở lớp 1 . Trong thời gian 1 năm tại trường ................... Nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến rèn đọc cho học sinh lớp 1.

3. Đề xuất 1 số biện pháp rèn đọc cho học sinh yếu lớp 1.

4. Đối tượng nghiên cứu.

Nghiên cứu về rèn đọc cho học sinh yếu lớp 1.

5. Các phương pháp nghiên cứu:

- Phương pháp điều tra.

- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.

- Phương pháp thực nghiệm khoa học giáo dục.

- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm.

PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

Nội dung của đề tài:

I. Thực trạng, tình hình qua khảo sát điều tra

Vào đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát nhỏ trong lớp 1A Trường .................. Với nội dung sau :

- Tìm hiểu số học sinh đi học mẫu giáo và số học sinh không đi học mẫu giáo hoặc đi học không đều .tìm hiểu lý do học sinh không đi học mẫu giáo.

- Kiểm tra sự nắm bắt , nhận diện chữ cái đã học trong trường mầm non .

Kết quả thu được như sau

Lớp 1AHọc sinh không đi học mẫu giáoHọc sinh đi học mẫu giáoHọc sinh đi học không đều
15 học sinh1143

Kết quả khảo sát nhận diện chữ cái:

Lớp 1AKhông biết chữ cái nàoBiết 10-15 chữNhận biết hết
15 học sinh843

Như vậy tỉ lệ học sinh nhận diện 1 cách chắc chắn chính xác bảng chữ cái quá thấp dẫn đến kết qủa học còn chưa cao .

Một trong những lí do dễ thấy là vì các em chưa được sự quan tâm của gia đình. Các em chưa chăm chỉ học. Vì vậy là giáo viên chúng ta phải biết được đặc điểm tình hình của từng đối tượng phát huy những mặt tích cực của học sinh. Tổ chức tiết dạy sao cho các em luôn luôn cảm thấy nhẹ nhàng và thích thú. Giáo viên phải gần gũi, yêu thương động viên kịp thời để học sinh thích học.

Nhận thức rõ điều này, thấy rõ được những khó khăn cơ bản, tôi đã thực hiện 1 số biện pháp: Rèn cho học sinh lớp 1 để cho học sinh học tốt.

I. Biện pháp:

A/ Biện pháp tác động giáo dục:

- Từ những thực trạng trên, tôi đã tiến hành họp phụ huynh học sinh đề nghị và yêu cầu thống nhất trang bị đủ sách vở đồ dung cần thiết phục vụ cho môn học.

- Yêu cầu, đề nghị phụ huynh nhắc nhở uốn nắn kịp thời việc học và làm bài ở nhà của học sinh.

- Tham mưu với nhà trường để giáo viên có đủ đồ dùng tranh ảnh và tài liệu tham khảo phục vụ bài dạy. Đồng thời mượn đồ dùng học tập,sách giáo khoa cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn.

- Xây dựng đôi bạn học giỏi- yếu kèm cặp nhau

- Đưa ra các tiêu chuẩn thi đua cho từng nhóm. Đầu giờ truy bài các nhóm kiểm tra chéo nhau.Cuối 1 tuần tổng kết thi đua vào giờ sinh hoạt. Hết tháng tổng kết tháng và có trao thưởng bằng phấn màu , bút chì, vở ...

B/ Phần học các nét chữ cơ bản:

Ngay sau những buổi đầu rèn nề nếp, tôi cho học sinh học các nét chữ cơ bản. Tôi đã dạy thật kỹ, thật tỉ mỉ tên gọi và cách viết các nét chữ đó. Để cho học sinh dễ hiểu, dễ nhớ những nét chữ cơ bản tôi phân theo cấu tạo các nét có tên gọi và cấu tạo gần giống nhau thành từng nhóm để học sinh dễ nhận biết và so sánh. Dựa vào các nét chữ cơ bản này mà học sinh phân biệt được các chữ cái, kể cả các chữ cái có hình dáng cấu tạo giống nhau.

.............