Số 7 đọc là bảy hay bẩy

 

Vừa qua, một diễn đàn trên mạng xã hội đã cho đăng tải hình ảnh về bài toán có yêu cầu: Hãy khoanh tròn lựa chọn đúng, số 74 đọc là gì? (A. Bảy mươi bốn/ B. Bảy mươi tư/ C. Bảy bốn/ D. Bảy tư). Người làm bài chọn đáp án là “A. Bảy mươi bốn”, song người chấm bài đã gạt đi và cho rằng “B. Bảy mươi tư” mới là cách đọc đúng.

Quản trị diễn đàn cho biết đây là hình chụp từ đề cương ôn tập môn toán học kỳ 2, được gửi đến từ một thầy giáo với mong muốn: tham khảo ý kiến các giáo viên về cách đọc chính xác nhất.

 

Số 7 đọc là bảy hay bẩy
Tư được dùng để chỉ số thứ tự, còn bốn là cách gọi số đếm, tùy vào từng ngữ cảnh khác nhau chúng ta có những cách đọc riêng

Tiến sĩ Ngôn ngữ Huỳnh Văn Thông

Một cuộc tranh luận đã xảy ra không chỉ tại diễn đàn nói trên mà còn trên các trang xã hội khác, để tìm kết quả đúng cho đề toán trên và thu hút sự quan tâm của đông đảo giáo viên cũng như cư dân mạng.

Có nhiều ý kiến cho rằng “bốn” hay “tư” trong trường hợp trên đều có thể chấp nhận và hiểu được, không nên quá chi li về việc này khi đánh sai lựa chọn của học sinh.

“Cách phát âm, cách đọc ảnh hưởng khá nhiều vào yếu tố vùng miền. Giáo viên miền Bắc sẽ có cách phát âm khác giáo viên miền Nam. Vậy nên, cùng chỉ một ý nghĩa về số lượng thì không nên làm khó học sinh bằng cách ra đề đánh đố như vậy!”, người có nickname Trung Hiếu bình luận.

Thành viên Kim Quy cũng có góp ý tương tự: “Tôi là một giáo viên và tôi dạy học sinh đọc theo cả hai cách: bảy mươi bốn hay là bảy mươi tư đều đúng. Bài tập trên nếu là tôi, sẽ thêm đáp án cả hai ý A và B đều đúng”.

Tuy nhiên, cũng có nhận xét cho rằng giáo viên trên đã nhầm khi chọn đáp án B vì “chẳng có số nào là số ‘tư’, vậy nên khi đọc bảy mươi tư là không sai nhưng cũng không đúng, phải là bảy mươi bốn mới đúng”.

Nhìn nhận sự việc ở góc độ khác, bạn T.L cho rằng cách đọc “bốn” hay “tư” là cuộc tranh luận không hồi kết giữa giáo viên dạy văn và giáo viên dạy toán, vì cả hai có những logic ngôn ngữ khác nhau.

 

Số 7 đọc là bảy hay bẩy

 

Nhiều bình luận trái chiều cho cách đọc 'bốn' hay 'tư' 

- Ảnh: chụp màn hình

 

 

 

“Thực ra tôi nghĩ lỗi ở đây thuộc về người ra đề, điều quan trọng là học sinh nhận biết được số và tính toán một cách hoàn chỉnh, ‘tư’ hay ‘bốn’ viết lên mặt giấy đều là số 4 cả. Chúng ta không thể dùng một lối suy nghĩ cứng nhắc để phán xét được”.

Về vấn đề này, tiến sĩ Ngôn ngữ - Trưởng khoa Báo chí và Truyền thông trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP.HCM Huỳnh Văn Thông - chia sẻ với Thanh Niên: “Tư là cách đọc của số thứ tự, còn bốn mới là cách dùng để đọc số đếm. Chúng ta phải phân biệt rõ hai khái niệm này và cần lưu ý khi sử dụng chúng, trong những ngữ cảnh khác nhau”.

“Ví dụ, người ta sẽ nói bốn cái bánh chứ không ai dùng tư cái bánh, anh Tư (nghĩa là người anh thứ tư - chỉ thứ tự). Cho nên, trong ngữ cảnh số đếm như đề bài, tôi không đồng quan điểm với giáo viên khi chọn đáp án bảy mươi tư, phải là bảy mươi bốn mới đúng” - tiến sĩ giải thích thêm.

 

Đây là một dạng biến nguyên âm hay gặp, nhất là khi hát. Bạn nghe kỹ sẽ hay thấy các ca sỹ sẽ chuyển nguyên âm a, a ngắn qua ơ, do lưỡi nâng lên và dễ lên cao hơn, nghe thanh thoát và đỡ thô hơn. A trong màu, bảy là a ngắn hay gọi là ă (so sánh với mài, bài). Nguyên âm a ngắn đứng trước bán Nguyên âm j, w - viết thành ay, au. Còn a dài đứng trước j, w thì thành ai, ao. Còn â chính là âm ơ ngắn. Về cao độ tự nhiên, ơ cao hơn a, do lưỡi đặt ở ví trí cao hơn. Và người Việt thì khi nói vào chuyện rất thích lên tông. Ví dụ: tàu -tầu, tụi bay- tụi bây, xé phay- xé phây, độ nảy- độ nẩy, độ nhạy- độ nhậy, bày ra- bầy ra, vảy cá- vẩy cá, vv

 

 

 

Một bài Toán lớp 1 sau khi được đăng tải trên mạng xã hội đã gây ra luồng tranh cãi từ phía các bậc phụ huynh.

 

Số 7 đọc là bảy hay bẩy

 

Theo bạn, học sinh đúng hay giáo viên đúng?

 

7 (bảy hay bẩy[1]) là một số tự nhiên ngay sau 6 và ngay trước 8.

    • Số bảy là số nguyên tố.
    • Số bảy là số may mắn của người Nhật Bản.
    • Bình phương của 7 là 49.
    • Căn bậc hai của 7 là 2,645751311.

Tính chất đặc biệt quan trọng[sửa|sửa mã nguồn]

7 là số nguyên tố, nghĩa là nó chỉ chia hết cho 1 và chính nó. Nó cũng là số nguyên tố Mersenne .Nó là một số ít kì diệu mà lấy 1/7 = 0, ( 142857 ) ( Tận cùng là 7 sau mỗi chu kì )

Ta nhận thấy rằng:

Bạn đang đọc: 7 (số) – Wikipedia tiếng Việt

 

  • 142857 x 1 = 142857.
  • 142857 x 2 = 285714.
  • 142857 x 3 = 428571.
  • 142857 x 4 = 571428.
  • 142857 x 5 = 714285.
  • 142857 x 6 = 857142.

Đặc biệt nếu lấy 142857 x 7 = 999999 .

Các phép tính[sửa|sửa mã nguồn]

Bảng nhân 7 :

Phép nhân 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 100 1000
7 × x 7 14 21 28 35 42 49 56 63 70 77 84 91 98 105 112 119 126 133 140 147 154 161 168 175 700 7000

Bảng chia 7 ( 7 là số bị chia và 7 là số chia với những số tương ứng ) :

Bảng lũy thừa ( 7 là cơ số hoặc số mũ với những số tương ứng ) :

Lũy thừa 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10   11 12 13
7x 7 49 343 2401 16807 117649 823543 5764801 40353607 282475249   1977326743 13841287201 96889010407
x7 1 128 2187 16384 78125 279936 823543 2097152 4782969 10000000   19487171 35831808 62748517

Bảy bài toán thiên niên kỉ[sửa|sửa mã nguồn]

Ngày 24/5/2000, Viện Toán học Clay công bố list bảy bài toán chưa giải được với phần thưởng cho việc xử lý mấu chốt trong việc giải mỗi bài là 1000000 đô la Mỹ :

Lớp và phân lớp electron nguyên tử[sửa|sửa mã nguồn]

Trong nguyên tử những electron sắp xếp thành 7 lớp, những lớp được sắp xếp từ gần hạt nhân ra ngoài [ 2 ]. Đó là :

  • Lớp K (n=1) có 1 phân lớp, đó là phân lớp 1s và 1 obitan.
  • Lớp L (n=2) có 2 phân lớp, đó là các phân lớp 2s và 2p và 4 obitan.
  • Lớp M (n=3) có 3 phân lớp, đó là các phân lớp 3s, 3d và 3p và 9 obitan.
  • Lớp N (n=4) có 4 phân lớp, đó là các phân lớp 4s, 4d, 4d và 4f và 16 obitan.
  • Lớp O (n=5) có 5 phân lớp và 25 obitan.
  • Lớp P (n=6) có 6 phân lớp và 36 obitan.
  • Lớp Q (n=7) có 7 phân lớp và 49 obitan.

Số obitan trong những phân lớp d, p, d, f lần lượt là những số lẻ : 1, 3, 5, 7. Số obitan của f lớn nhất : 7 obitan .

Bảng tuần hoàn những nguyên tố hóa học[sửa|sửa mã nguồn]

Trong bảng tuần hoàn những nguyên tố hóa học có 7 chu kì. Chu kì 7 gồm có những nguyên tố phóng xạ như Ranxi ( số hiệu nguyên tử 87 ), rađi ( số hiệu nguyên tử 88 ), … Các nguyên tử halogen ( flo, clo, brom, iod, atalin ) có 7 electron lớp ngoài cùng trong nguyên tử. Do đó chúng nằm ở nhóm VIIA trong bảng tuần hoàn .
7 là số hiệu nguyên tử của nguyên tố Nitơ ( N ). Do đó nguyên tử Nitơ có 7 electron và 7 proton. Nitơ là chất khí không màu, không mùi, không vị, ít tan trong nước. Trong không khí, thể tích khí Nitơ chiếm 78 %, lớn nhất trong toàn bộ những khí .

Thang độ pH[sửa|sửa mã nguồn]

Trong thang độ pH, nước trung tính có pH = 7. Nếu pH tăng dần thì tính base tăng lên và ngược lại nếu pH giảm dần thì tính axit tăng. Do đó quỳ tím đổi màu Đỏ khi gặp thiên nhiên và môi trường axit, nó đổi màu Xanh khi gặp môi trường tự nhiên base .

Hợp chất hữu cơ[sửa|sửa mã nguồn]

Có tới 9 ankan có 7 Cacbon trong phân tử. Heptan là một trong số đó (Hình dưới).

Bảy sắc tố trong tự nhiên[sửa|sửa mã nguồn]

Số 7 đọc là bảy hay bẩy
Cầu vồng có bảy màuKhi mặt trời chiếu qua một bầu khí quyển trong sáng, ánh sáng có vẻ như trắng. Ánh sáng trắng gồm vô số màu. Khi mặt trời chiếu qua nước mưa, nó phân ra thành 7 màu vì những giọt nước mưa hành vi như những lăng kính nhỏ. Khi đó, ánh sáng trắng bị khúc xạ và mỗi màu nghiêng theo một góc khác nhau để cho ta thấy những màu khác nhau trải dài thành giải dưới dạng một hình cung. Đó là cầu vồng gồm 7 màu :

Các đơn vị chức năng cơ bản[sửa|sửa mã nguồn]

Hệ đo lường quốc tế (viết tắt SI, tiếng Pháp: Système International d’unités) là hệ đo lường được sử dụng rộng rãi nhất. Trong hệ này, có bảy đơn vị cơ bản trong hệ SI bao gồm:

 

Xem thêm: Cẩm nang làm đẹp cho da mặt từ các nguyên liệu có sẵn

 

Nó được sử dụng trong hoạt động giải trí kinh tế tài chính, thương mại, khoa học, giáo dục và công nghệ tiên tiến nhiều nước trên quốc tế ngoại trừ Mỹ, Liberia và Myanma .

  1. ^ Từ điển Tiếng Việt ( Từ điển Hoàng Phê ), Viện ngôn ngữ học Nước Ta, Nxb TP. Đà Nẵng, 2003 .
  2. ^ Sách giáo khoa Hóa học 10 Nâng cao, Nhà xuất bản Giáo dục đào tạo, trang 23 và 24