So sánh nhân vật mị và liên

Liên Hệ Nhân Vật Mị, So Sánh Mị Và Chị Dậu, Thúy Kiều ❤️ 38+ Mẫu ✅ Văn Tham Khảo Đề Tài Liên Hệ Mở Rộng Nhân Vật Mị Hay Nhất.

Cách Liên Hệ Nhân Vật Mị Trong Tác Phẩm Vợ Chồng A Phủ

Cùng SCR.VN học cách liên hệ nhân vật Mị trong “Vợ chồng A Phủ” đơn giản nhất nhé!

  • Bước 1: Phân tích nhân vật Mị
    • Ngoại hình: xinh đẹp, thổi sáo giỏi, có hiếu với cha mẹ.
    • Tài năng: thổi sáo giỏi, làm nương làm rẫy.
    • Diễn biến tâm lí:
      • Mị khi mới về làm dâu nhà thống lí Pá Tra
      • Mị trong đêm tình mùa xuân
      • Mị trong đêm tình mùa đông
  • Bước 2: Liên hệ nhân vật Mị
    • Tìm kiếm tác phẩm, đề tài có nội dung nói về số phận bất hạnh của người phụ nữ, nhưng họ vẫn vùng lên đấu tranh đòi quyền lợi, đòi được sống tự do và mưu cầu hạnh phúc để liên hệ với nhân vật Mị.
  • Bước 3: Nhận xét
    • Nội dung và nghệ thuật
    • Tấm lòng của tác giả

Tham khảo 🌸 Liên Hệ Vợ Chồng A Phủ 🌸 đặc sắc!

So sánh nhân vật mị và liên

Dưới đây là mẫu so sánh nhân vật Mị và chị Dậu, mời bạn tham khảo!

1. Giống nhau:

  • Có hoàn cảnh éo le: Mị làm dâu trả nợ. Chị Dậu nhà nghèo, đông con, phải đóng sưu thuế cho người em chồng đã mất, thậm chí ngay cả khi bán con cũng không đủ tiền trả nợ.
  • Tinh thần phản kháng: Mị chạy theo A Phủ để giải thoát chốn địa ngục trần gian. Chị Dậu đánh tên cai lệ, tên hậu cận lí trưởng để bảo vệ chồng và đó cũng là cách chị tự giải thoát chính mình.

2. Điểm khác nhau

a, Số phận

  • Mị bị bắt về làm vợ, vì bố mẹ mà ở lại làm việc trả nợ, làm trâu làm ngựa cho nhà chồng, không được sống cuộc sống như những cô gái khác, bị đánh trói lên cột.
  • Chị Dậu: nghèo, thiếu sưu, chồng bị lôi ra đình đánh trói, bán con, bán chó vẫn không đủ tiền đóng sưu, cuối cùng là bán “sữa”.

b, Tính cách

  • Mị: hiếu thảo, cam chịu, nhẫn nhục, đã từng bế tắc sống như kẻ vô hồn nhưng rồi khao khát được sống nên quyết tâm bỏ trốn.
  • Chị Dậu: yêu thương chồng con, đánh lại cai lậy cũng vì chồng. Phải bán “sữa người” để có tiền.

c, Cách giải quyết vấn đề

  • Mị cắt dây bỏ trốn cùng A Phủ và tìm được ánh sáng của Đảng vì tác phẩm này ra đời sau 1945, tác giả đã có sự giác ngộ của cách mạng.
  • Chị Dậu bỏ trốn trong đêm nhưng trước mắt chỉ toàn là bế tắc vì tác phẩm ra đời trước 1945.

So Sánh Mị Và Thúy Kiều

Tham khảo bài so sánh 2 nhân vật là Mị và Thúy Kiều dưới đây để biết cách làm dạng đề này nhé!

1. Giống nhau

  1. Vẻ đẹp:
  • Mị là cô gái người Mông trẻ trung, hồn nhiên, có tài thổi sáo “thổi lá cung hay như thổi sáo có biết bao nhiêu người mê”. Mị đã từng yêu, từng được yêu, luôn khao khát đi theo tiếng gọi của tình yêu.
  • Kiều là người con gái có vẻ đẹp tuyệt sắc giai nhân khiến thiên nhiên cũng phải ganh tị: “mây thua nước tóc” “ liễu hờn kém xanh” . Thúy Kiều vừa có sắc vừa có tài năng cầm, kì, thi, họa.
  1. Đức tính:
  • Mị hiếu thảo, chăm chỉ, ý thức được giá trị cuộc sống tự do nên sẵn sàng làm nương ngô trả nợ thay cho bố. Về sau vẫn phải về làm con dâu gạt nợ.
  • Kiều bán mình để chuộc cha và em làm tròn đạo hiếu.

\=> Cả 2 đều đáng thương khi rơi vào hoàn cảnh gia đình tan tác, hy sinh chính hạnh phúc của mình để cứu lấy gia đình, cứu lấy cha -> Đặt chữ hiếu lên hàng đầu.

2. Khác nhau

  1. Số phận:
  • Mị:
    • Vì món nợ truyền kiếp của cha mẹ, Mị trở thành con dâu nhà thống lí Pá Tra nhưng nhìn chẳng khác gì người hầu. Hàng ngày làm việc không lúc nào ngơi tay.
    • Mị luôn tiềm tàng sức sống mãnh liệt, sức sống ấy luôn âm ỉ trong lòng người con gái Tây Bắc và chỉ chờ có cơ hội để bùng lên mạnh mẽ. Ví dụ như trong đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài, sức sống của Mị đã trỗi dậy.
  • Thúy Kiều:
    • Vì gia đình tan tác, Kiều tự nguyện bán mình để chuộc cha.
    • Từ bỏ tình yêu với Kim Trọng, nhờ em gái là Thúy Vân nối tiếp mối tình dang dở.
    • Tình yêu không trọn vẹn, trải qua nhiều mối tình (với Thúc Sinh, với Từ Hải) nhưng gặp nhiều éo le.
  1. Cách giải quyết vấn đề
  • Mị thương A Phủ bị trói, thương bản thân mình sống lầm lũi nên cắt dây cho A Phủ và 2 người cùng nhau tìm lối thoát vượt ra khỏi địa ngục trần gian.
  • Thúy Kiều cam chịu số phận, cuộc đời như tấm lụa đào phất phơ giữa chợ, như thân bèo trôi nổi vô định không biết trôi dạt về đâu.

Mẫu 🌸 Tóm Tắt Vợ Chồng A Phủ 🌸 ngắn gọn!

So sánh nhân vật mị và liên

Những Mẫu Liên Hệ Mở Rộng Nhân Vật Mị Hay Nhất

Tuyển tập những bài văn liên hệ mở rộng nhân vật Mị trong “Vợ chồng A Phủ” hay nhất, xem ngay bên dưới nhé!

Liên Hệ Mở Rộng Nhân Vật Mị Trong Đêm Tình Mùa Xuân Đặc Sắc

Chia sẻ đến bạn bài văn liên hệ mở rộng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân đặc sắc nhất!

Truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ” in trong tập “Truyện Tây Bắc” là một tác phẩm tiêu biểu, sau hơn nửa thế kỉ, đến nay vẫn giữ nguyên vẹn sức hút với nhiều thế hệ người đọc. Tác phẩm xoay quanh số cuộc sống của nhân vật Mị, đặc biệt là diễn tả diễn biến nội tâm của cô trong từng giai đoạn và đêm tình mùa xuân là một cảnh tác động lớn diễn biến tâm lý và hành động của người con gái vùng núi này.

Vì sao sau bao nhiêu năm sống lầm lũi như con rùa nuôi nơi xó cửa, chấp nhận cuộc sống chẳng bằng con trâu, con ngựa, sức sống của Mị lại chợt hồi sinh trong đêm tình mùa xuân? Phải chăng không khí mùa xuân đến bất ngờ cùng hội xuân, sắc áo váy rực rỡ và những cuộc chơi đã ảnh hưởng đến Mị? Hay chẳng phải sắc màu cũng chẳng phải hương xuân mà chính là tiếng sáo thân quen.

Tiếng sáo gọi bạn tình vốn đã quen thuộc, đi vào nếp sống của người dân Hồng Ngài, họ dùng tiếng sáo để thể hiện tình yêu, để nói lòng mình. Nghe tiếng sáo, Mị lại bồi hồi nhớ lại quá khứ của mình, tiếng sáo đưa Mị theo những cuộc chơi, hình ảnh tiếng sáo quan trọng đến mức được lặp lại hơn mười lần trong tác phẩm. Tiếng sáo tuy giản dị, mộc mạc nhưng lại khiến lòng người thiết tha bồi hồi, bởi nó tượng trưng cho tình yêu trai gái.

Tiếng sáo khơi dậy trong người con gái vốn tưởng đã chết về mặt tinh thần sống lại quá khứ tươi đẹp, cái ngày mà cô thỏa sức vùng vẫy trong tự do và tình yêu. Chính tiếng sáo đã tác động mạnh mẽ đến sức sống tiềm tàng trong Mị.

Bên cạnh tiếng sáo, men rượu cũng là một yếu tố khiến Mị có sự thay đổi. Mị uống ực từng bát, uống như một tên sâu rượu, Mị uống để quên đi hiện tại khốn khổ, nhục nhã và cũng để không nhớ đến tương lai mờ mịt, không có gì để hi vọng. Hành động uống rượu ấy đã nói lên nỗi oan khuất đau buồn trong trái tim người con gái nhưng cũng tiếp thêm sức mạnh để người con gái ấy bừng tỉnh sức sống.

Từ những chất xúc tác từ bên ngoài ấy cùng bản chất mạnh mẽ, tràn đầy sức sống, Mị đã hồi sinh cảm xúc trong đêm tình mùa xuân. Nghe tiếng sao, Mị bỗng cảm thấy tha thiết, bồi hồi. Những cảm xúc nhẹ nhàng ấy khiến Mị nhớ về quá khứ – một quá khư tươi đẹp mà chẳng bao giờ Mị dám hi vọng có thể sống lại một lần nữa.

Từ những hồi ức đẹp đẽ ấy, Mị thấy phơi phới trở lại và cô nhận ra mình vẫn còn trẻ. Điều đầu tiên cô muốn làm khi sống lại cảm giác chính là muốn đi chơi. Mị muốn ra ngoài, không còn muốn yên phận sống trong căn phòng kín mít, chỉ có một ôi cửa sổ nhỏ, hằng ngày nhìn ra không biết là sáng hay tối nữa. Cô bắt đầu sửa soạn, cô lấy chiếc váy hoa,cho thêm mỡ vào đèn để thắp sáng căn phòng tăm tối và quấn tóc. Đây là những hành động được coi là phản kháng của Mị, cô đã bắt đầu có những phản ứng với cuộc sống, đã hồi sinh cảm xúc.

Nhưng ngay khi ngọn lửa sức sống đang bùng cháy mạnh mẽ thì lại bị dập tắt, con người tàn nhẫn ấy không ai khác chính là A Sử – con trai thống lý và cũng là chồng Mị. Hắn đột nhiên về nhà và thấy lạ khi thấy Mị sửa soạn đi chơi. Con người ấy đã trói Mị lại, độc ác hơn, hắn lấy tóc Mị quấn quanh cột, không cho Mị cử động.

Nhưng dù bị trói, hơi rượu vẫn nồng nàn trong Mị, chi phối lý trí cô. Cô nghe thấy tiếng sáo, tiếng sáo gọi bạn tình của ai kia mà như gọi lòng cô, bất giác cô bước đi, cô muốn đi theo tiếng sáo tình yêu ấy, đó mới chính là cuộc sống đáng lẽ cô được hưởng. Nhưng dây trói cứa vào da thịt, nỗi đau thể xác làm cô bừng tỉnh. Cô đành lòng phải trở lại với hiện thực đắng cay, rằng thân phận mình không bằng con ngựa nhà thống lý.

Sự hồi sinh sức sống của Mị trải qua cả một quá trình diễn biến từ những cảm xúc hồ tưởng về quá khứ đến hành động phản kháng muốn đi chơi và cuối cùng nhận thức ra một điều quan trọng. Lúc này Mị đã hiểu ra, trong ngôi nhà này, đến cả con trâu, con ngựa mình cũng không bằng. Sự hồi sinh sức sống này do nguyên nhân khách quan là tiếng sáo và men rượu nồng nó chưa đủ sức mạnh để tạo nên những hành động mạnh mẽ để tự giải thoát mình, chính vì thế sau đó, Mị lại trở lại cuộc sống như cũ.

Bất chợt ta nhớ đến hơi cháo hành lan tỏa trong tâm trí Chí Phèo (Chí Phèo Nam Cao). Hơi cháo ấy quặn thắt những nỗi đau trong Chí- nỗi đau về sự ruồng bỏ của Thị Nở, của cuộc đời và những khát vọng lương thiện trỗi dậy là vội tan

Trong cuộc sống, đôi khi sẽ có những giọng nói, những âm thanh, những mùi hương khiến ta khắc khoải về một điều gì đó, một ai đó. Khi chúng trở về, con người sẽ dễ dàng vỡ òa trong chúng, con người sẽ ngừng bị chúng thôi thúc để phản kháng với hiện thực, với những bất công mà mình đang phải chịu đựng.

Chí Phèo từ hơi cháo hành đã khóc nức nở trong niềm tiếc nuối da diết những tháng ngày hạnh phúc hiếm hoi trong đời bên Thị Nở. Hắn đã không thể ngăn những bước chân của mình đến nhà Bá Kiến để đòi nợ máu, để đòi được lương thiện, để đòi sự công bằng từ những bi kịch hắn phải gánh chịu trong cả đời mình.

Qua nghệ thuật miêu tả tâm lý cùng việc sử dụng ngôn ngữ giản dị, thông dụng, Tô Hoài dường như đã vẽ lên trước mắt người đọc hình ảnh một người con gái mạnh mẽ, tuy đã bị vùi dập, tưởng chỉ còn cái xác không hồn nhưng bên trong vẫn tiềm tàng ẩn chứa sức sống mãnh liệt, chỉ tìm cơ hội để hồi sinh, để bùng cháy.

Liên Hệ Mị Trong Đêm Tình Mùa Đông Ngắn Gọn

Gửi tặng bài văn liên hệ mở rộng nhân vật Mị trong đêm tình mùa đông ngắn gọn đến quý vị độc giả:

Sự kiện nhân vật Mị cởi trói, giải thoát cho A Phủ và tự giải thoát cho mình trong truyện Vợ chồng A Phủ là một sự kiện then chốt, thể hiện nổi bật chủ đề và giá trị nhân đạo của tác phẩm. Xây dựng sự kiện này, nhà văn Tô Hoài đã chứng tỏ tài năng xuất sắc của mình trong nghệ thuật dựng truyện và khắc họa tính cách nhân vật.

Thời điểm Mị cởi trói phù hợp với lôgic phát triển của mạch truyện. Nhà văn đã chuẩn bị và tạo được sự diễn biến hết sức tự nhiên để sự kiện xảy ra như một sự tất yếu. Nếu cho đến trước sự kiện này, người đọc chỉ thấy Mị là một con người không còn ý thức về sự sống, sống mà như chết thì sự trỗi dậy của Mị thiếu cơ sở thuyết phục, sẽ khiên cưỡng, không tự nhiên.

Song Tô Hoài đã rất tinh tế và sâu sắc khi trước đó đã để lòng ham sống, khát khao hạnh phúc, ý thức về cuộc sống của Mị thức dậy trong đêm mùa xuân. Từ những tác động, kích thích của không khí đầy sức sống của mùa xuân, từ tiếng sáo gọi bạn tình và cả men rượu, trong Mị đã dần sống lại những kỉ niệm, những khát khao của tuổi trẻ đã từng có trong chị, kéo theo là ý thức về thời gian, cuộc sống, thân phận mình.

Ngọn lửa sưởi bùng lên, cùng lúc ấy thì Mị nhìn sang, thấy mắt Ả Phủ trừng trừng, mới biết A Phủ còn sống. Mấy đêm nay như thế. Nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi.

Cho đến đêm diễn ra sự kiện cởi trói, khi Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mờ, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại thì trong Mị mới chợt trào lên nỗi đồng cảm trước tình cảnh đau đớn, tuyệt vọng của A Phủ.

Thoạt đầu là sự đồng cảm của người cũng đã từng phải chịu đựng cảnh trói đứng như thế, rồi Mị liên tưởng đến chuyện từng có người đàn bà bị bắt trói cho đến chết cũng ở nhà này. Ý thức phản kháng bắt đầu nhen nhóm: Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đến mai là người kia chết, chết đau, chả đói, chết rét, phải chết. […] Người kia việc gì mà phải chết thế.. Đến thời điểm Mị nghĩ đến việc phải trói thay vào đấy, chết trên cái cọc ấy mà Mị cũng không thấy sợ thì sự đồng cảm, ý thức phản kháng đã đủ để biến thành hành động táo bạo: cắt dây trói cứu A Phủ.

Ngay sau đó, lòng ham sống, hy vọng sống, ý thức về sự sống của mình bừng lên trong Mị và chị chạy theo A Phủ, tự giải thoát cho cuộc đời nô lệ của mình.

Như vậy, tùng bước, theo sự phát triển của mạch truyện và diễn biến tâm lí nhân vật, hành động cởi trói của Mị là một lựa chọn nghệ thuật đích đáng. Điều đó nói lên, sự sống, ý thức và niềm khao khát về hạnh phúc chưa hề lụi tàn trong con người Mị, có khi nó được bộc lộ ra, có khi tiềm tàng sống đó là một sức sống mãnh liệt.

Chị Dậu cũng là một nhân vật tuyệt đẹp và tiềm tàng sức sống mãnh liệt, Nguyễn Tuân viết: Cả tác phẩm “Tắt đèn” là một đêm tối có những lúc bóng tối đen dày đặc quánh vón thành từng cục làm cho chị Dậu phải thì thào tiếng nói bóng ma. Nhưng chị không đầu hàng bóng tối… Trái lại chị cứ lăn xả vào bóng tối mà phá ra. Cây lúa thèm ánh sáng thế nào thì Chị Dậu tuôn ra khỏi bóng tối mạnh như vậy.”

Vì thế Nguyễn Tuân đã khẳng định: Trên cảnh tối giời tối đất của đồng lúa ngày xưa thấy xuất hiện lên sừng sững một chân dung lạc quan. Đó là Chị Dậu. Chân dung Chị Dậu thì lạc quan nhưng tiền đồ của chị lại tối đen như mực. Còn cô Mị của Tô Hoài là nhân vật của văn học cách mạng, nên tiền đồ của cô vô cùng tươi sáng. Cô đã được Đảng dìu dắt từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui.

Những 🌸 Nhận Định Về Vợ Chồng A Phủ 🌸 hay nhất!

So sánh nhân vật mị và liên

Liên Hệ Mị Cởi Trói Cho A Phủ Ấn Tượng

Mẫu bài văn liên hệ mở rộng nhân vật Mị cởi trói cho A Phủ ấn tượng đã được biên soạn ở dưới, xem ngay bạn nhé!

Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài hấp dẫn người đọc không chỉ ở hiện thực cuộc sống con người miền núi Tây Bắc được tái hiện với những cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, những phong tục tập quán lạ lùng, mà còn ở sự bất ngờ của số phận nhân vật.

Không ai ngờ, Mị – một người con gái trẻ trung, xinh đẹp, tài hoa, giàu nghị lực sống lại trở thành một người buồn bã, không còn biết nói cười vì bị dìm xuống đáy sâu của cuộc sống khổ đau. Rồi lại cũng không ngờ, chính con người nô lệ ấy đã cắt dây giải thoát một người đàn ông bị trói đứng vào cột, để rồi cùng anh ta chạy trốn khỏi nơi bị đọa đày.

Hành động cắt dây giải thoát A Phủ của Mị là một hành động lạ lùng, bởi trước đó, Mị đã rơi vào một tình trạng gần như hoàn toàn vô cảm. Mấy ngày đêm chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, bị bỏ đói khát ngoài trời giá rét, Mị vẫn không hề động lòng. Thậm chí, nếu A Phủ chết đứng, Mị cũng không thương cảm. Dường như nỗi đau khổ đã làm trái tim Mị trở nên chai lì.

Nhưng khi nhìn thấy giọt nước mắt chảy dài trên gò má sạm đen dưới ánh lửa bập bùng của A Phủ, Mị đã động lòng thương. Mị đã biết nghĩ đến sự bất công nếu A Phủ phải chết. Tính đến sự nguy hiểm nếu cắt dây cho A Phủ trốn thoát, Mị không sợ hãi.

Thế nhưng, khi dây trói đứt, A Phủ vùng chạy, chỉ còn một mình, nỗi sợ hãi lập tức ập đến. Bản năng sống còn rất mạnh cho Mị hiểu rằng, cái cọc không kia chính là sự hiện hình của cái chết. Câu nói: “A Phủ, cho tôi đi […] Ở đây thì chết mất” cho thấy Mị vẫn luôn luôn hướng về sự sống. Mị và A Phủ đã chạy băng rừng hàng tháng trời để thoát khỏi nhà thống lí Pá Tra, thoát khỏi Hồng Ngài – nơi đối với họ thực sự là địa ngục trần gian.

Việc Mị cắt dây trói giải thoát cho A Phủ rồi cùng A Phủ bỏ trốn khỏi Hồng Ngài thoạt nhìn có vẻ bất ngờ, lạ lùng, nhưng xét kĩ, đó là hành động tất yếu, phản ánh bản chất của một người luôn tiềm tàng sức sống, luôn phản kháng quyết liệt.

Những ngày sống với cha, khi thống lí muốn đưa Mị về làm dâu trừ nợ, Mị đã chối từ dứt khoát. Cô thà hằng năm phải cuốc nương ngô trả nợ còn hơn bị bán cho nhà giàu. Bị A Sử lợi dụng tục cướp vợ lừa bắt, Mị đã dám tìm đến cái chết để tự giải thoát.

Ngay cả trong một đêm xuân, khi tâm hồn rạo rực trở lại, nếu có nắm lá ngón, Mị sẽ ăn cho chết đi, không buồn nhớ đến nữa. với Mị, sống mà bị đọa đày đau khổ, thà chết còn hơn. Những cái chết thoáng qua đầu óc Mị trong những cảnh ngộ cụ thể không làm mất đi bản năng hướng về sự sống của cô. Cho nên, trong đêm tình mùa xuân, khi trai gái cất tiếng sáo hẹn hò, khi nhớ lại những câu hát tình tứ ngày nào, khi hơi rượu đã làm chếnh choáng, Mị muốn trở lại với thời trẻ trung sôi nổi để được sống với những gì mình khao khát.

Việc nhân vật Mị cởi trói cho A Phủ ta có thể liên hệ đến tâm trạng của chị em Liên khi chờ tàu. Liên chờ tàu không chỉ để bán hàng hay để thỏa mãn sự hiếu kỳ, mà là vì nhu cầu tinh thần của mình vào những đêm tối. An đã buồn ngủ dù đôi mắt vẫn cố dặn chị “tàu đến chị đánh thức cho em nhé”. Liên và An đều hào hứng chờ đợi chuyến tàu từ Hà Nội về, vì nó gợi lên những kí ức về một cuộc sống tươi đẹp trong quá khứ. Chuyến tàu cũng giúp cho Liên và An được cảm nhận cuộc sống dù chỉ trong một khoảnh khắc.

Đoàn tàu cuối cùng cũng đến trong sự mong chờ của chị em Liên. Liên và An đã đặt cả tâm hồn mình vào con tàu từ khi nó còn ở xa, và khi tiếng còi reo lên, tàu rầm rộ đi tới, những toa hàng sang, mạ kền và mạ đồng lấp lánh, các cửa kính sáng chói. Con tàu đã mang đến cho họ một thế giới khác, một thế giới rực rỡ, vui vẻ và ồn ào – một thế giới khác hoàn toàn so với cuộc sống nghèo khổ hàng ngày.

Đoàn tàu chỉ xuất hiện trong một khoảnh khắc rất ngắn rồi vụt qua đi vào đêm tối. An nhận ra tàu hôm nay “kém sáng hơn”, nhưng Liên vẫn “lảng theo mơ tưởng”. Đoàn tàu không làm thay đổi cuộc sống nơi phố huyện nhưng sự xuất hiện của nó đủ để lại niềm khao khát cho những con người nơi đây “chừng ấy con người… của họ”. Một nguồn ánh sáng nhỏ nhoi chỉ chút tan hóa vào bóng tối sau đoàn tàu, đủ để gợi nhớ những kí ức về cuộc sống tươi đẹp trong quá khứ và cảm nhận cuộc sống dù chỉ trong một giây lát.

Cả hai tác phẩm đều phản ánh cuộc sống vất vả, tối tăm của người lao động trong xã hội cũ. Nhà văn thể hiện thái độ thương cảm, trân trọng với những ước mơ, niềm khát vọng của con người, dù bình dị. Qua đó, thể hiện cái nhìn hiện thực và nhân đạo sâu sắc của Thạch Lam và Tô Hoài.

Trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, nhà văn Tô Hoài thể hiện sự sống động và mãnh liệt của những người lao động như Mị và A Phủ, họ tự giải phóng mình khỏi cuộc sống tối tăm và hướng đến một cuộc sống và tương lai tốt đẹp hơn thông qua con đường cách mạng.

Trong truyện ngắn Hai đứa trẻ, Thạch Lam đã thể hiện sự đau xót cho cuộc sống đầy khổ đau và tăm tối của những người dân nghèo nơi phố huyện, người ta sống mòn mỏi trong nỗi buồn chán và tuyệt vọng, với ước mơ chỉ là chờ đợi một chuyến tàu đêm đi qua.

Có thể nói, văn học thời kỳ 1945-1975 có nét hiện thực mới và nhân đạo mới hơn so với văn học thời kỳ 1930-1945.

Liên Hệ Mị Uống Rượu Độc Đáo

Nếu bạn đang gặp khó khăn về đề liên hệ nhân vật Mị uống rượu thì hãy dành thời gian tham khảo những bức tranh dưới đây:

Nếu Chí Phèo trong tác phẩm “Chí Phèo” của nhà văn Nam Cao uống rượu để cho mình sức mạnh để ăn vạ, đối đầu với Bá Kiến để nhận ra bi kịch bị từ chối quyền làm người và có thêm dũng khí trừng trị tên Bá Kiến và chết trên ngưỡng cửa làm người thì đến với nhân vật Mị, Mị uống rượu là một bước ngoặt lớn trong cuộc đời người con gái Tây Bắc, sau bao tháng ngày sống tăm tối, câm lặng trong nhà Thống Lý.

Đây là dấu hiệu của sự hồi sinh, thức tỉnh sự sống dậy của một tâm hồn dào dạt yêu thương và khao khát sống một cách mạnh mẽ. Tâm trạng của Mị lúc này vô cùng phức điệu của một tâm hồn phong phú. Mị nhận ra thực tại đau lòng“Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi tết. A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau” .

Không có nỗi khổ nào lớn hơn với người phụ nữ là phải sống trong một cuộc hôn nhân không có tình yêu, sống với người mình không yêu và cũng chẳng yêu mình. Nỗi đau ấy dường như như đang cứa vào da thịt Mị làm nhức nhói cả trái tim. Dường như người đàn bà câm lặng đã được xóa bỏ, thay vào đó là một cô Mị ý thức về sự tồn tại, tình yêu và hạnh phúc.

Nhớ về quá khứ tươi đẹp, “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như đêm tết ngày trước” . Cô Mị yêu đời, ham sống, hồn nhiên, tươi trẻ ngày nào dường như đã thật sự trở về. Mị đã nhận ra được chính mình, “Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ” . Vẻ đẹp của Mị bị vùi lấp sau bao tháng ngày giờ đây đã trở lại mạnh mẽ.

Mị nhận ra tuổi xuân vẫn còn ở với mình, nhan sắc của mình từng làm chao đảo biết bao chàng trai giờ đây vẫn còn đủ sức quyến rũ. Mị đã thật sự được hồi sinh cả ý thức lẫn tâm hồn, từ suy nghĩ đến hành động.

Khát khao cháy bỏng trong lòng mình: “Mị muốn đi chơi”, Mị ý thức rất rõ quyền sống, quyền hạnh phúc, quyền đi chơi của phụ nữ. Cô Mị đang bắt đầu cựa quậy, phản kháng, không chấp nhận cuộc sống tù túng, câm lặng, cam chịu. “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra” .

Nhà văn Tô Hoài như hóa thân vào nhân vật Mị để lắng nghe, thấu hiểu những ẩn khuất vi diệu của lòng người. Ngòi bút nhà văn rất tinh tế, sắc sảo trong việc miêu tả tâm lí nhân vật.

Hơi rượu nồng nàn cùng với âm thanh tiếng sáo đã nâng đỡ tâm hồn Mị hòa vào mùa xuân rạo rực xuân tình tiếng sáo từ ngoại giới lửng lơ bay ngoài đường đã nhập vào tâm hồn Mị trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo, có tác dụng lay động tiềm thức, hiện hình thành dòng ý thức trong tâm hồn giúp Mị có những hành động táo bạo, bất ngờ.

“Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ xắn một miếng bỏ vào đĩa đèn cho sáng lên”. Mị muốn thắp sáng lên căn buồng tối tăm, chật chội, xua đi bóng đêm giá lạnh đang vây hãm cuộc đời Mị. Đâu chỉ thế, Mị còn muốn thắp sáng tâm hồn, cuộc đời đang lẩn quẩn trong bóng đêm không lối thoát. Đây chính là ánh sáng của niềm tin, hy vọng, khát vọng được sống được yêu thương, hạnh phúc, ánh sáng của tự do.

“Mị quấn lại tóc. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt phía trong vách”. Hàng loạt những động từ liên tiếp dồn dập cho thấy sự trỗi dậy trong sức sống của Mị. Mị đang làm đẹp cho chính mình và làm đẹp cho cuộc đời. Người đàn bà cam chịu, nhẫn nhịn, vô hồn đã nhường chỗ cho một cô Mị trẻ trung, tràn trề sức xuân. Sức sống mãnh liệt làm cho Mị không còn biết đến thực tại đau đớn, tủi nhục. Tiếng sáo, men rượu như đôi cánh lãng mạn dìu hồn Mị hòa vào mùa xuân hồn nhiên mà rạo rực xuân tình.

A Sử trói mà Mị không hề hay biết. A Sử trói thân xác nhưng không trói được tâm hồn, không hủy diệt được lòng yêu đời, ham sống của người con gái này. Sự tàn bạo không thể hủy diệt được ngọn lửa của thế giới tâm hồn ngọn lửa trong tim, nhân phẩm của con người.

Hơi rượu nồng nàn, Mị vẫn nghe theo tiếng sáo đưa Mị theo những cuộc chơi.. Mị vùng bước đi, mới biết mình đang bị trói. Tâm trạng Mị thổn thức, Mị nghĩ mình không bằng con ngựa, nhưng tiếng chó sủa, tiếng sáo thổi, hơi rượu nồng nàn lại dìu Mị trở về với những cuộc chơi của mùa xuân năm xưa.

Mị chập chờn giữa mê và tỉnh, dòng ý thức và tiềm thức cứ tương tranh. Ở Mị đang tồn tại hai con người: Con người thực tại với nỗi đau thân phận trâu ngựa; con người quá khứ nồng nàn, thiết tha, rạo rực xuân tình. Và con người quá khứ ấy dường như đang dần thắng thế.

Bằng cái nhìn nhân đạo nhà văn đã khám phá một cách sâu sắc diễn biến tâm trạng phức tạp nhưng chân thật của tâm hồn Mị để từ đó nhà văn khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn, sức sống của con người, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào nhà văn cũng không mất đi niềm tin vào con người.

Đoạn văn 🌸 Mở Bài Vợ Chồng A Phủ Hay 🌸 hấp dẫn!

So sánh nhân vật mị và liên

Liên Hệ Nhân Vật Mị Và Chí Phèo Ý Nghĩa

Các bạn học sinh đừng bỏ qua bài văn liên hệ nhân vật Mị và Chí Phèo sau đây nhé!

Trong nền văn học hiện thực Việt Nam, sự xuất hiện của một loạt các cây bút tài năng như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan,… đã phản ánh một cách rất chân thực số phận bi kịch của người nông dân, trí thức nghèo trong xã hội cũ, cùng với những bất công, sự tàn ác của chế độ thực dân nửa phong kiến đẩy con người ta vào đến bước đường cùng.

Trong đó với Chí Phèo của Nam Cao và Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, ta đều nhận thấy nội dung chính xuyên suốt tác phẩm ấy là sự thức tỉnh, trỗi dậy mạnh mẽ của nhân vật chính. Tuy nhiên với bối cảnh ra đời và hướng đi khác nhau trong phong cách viết của mỗi tác giả thể nên sự thức tỉnh của các nhân vật và cái kết của họ cũng phát triển theo những lối đi riêng, một bên là bi kịch, một bên lại là con đường rực sáng đầy hy vọng.

Trước hết nói về quá trình thức tỉnh của Mị trong Vợ chồng A Phủ, Mị là một cô gái xinh đẹp, có tài thổi sáo, chăm chỉ làm lụng, thế nhưng cái hủ tục của cường quyền và thần quyền phong kiến đã phá vỡ hết tất cả. Món nợ truyền kiếp của người cha nghèo mà Mị phải gánh thay, đã đẩy Mị vào bước đường trở thành người con dâu gạt nợ.

Bước vào làm dâu nhà giàu nhưng buộc phải sống một cuộc đời không khác gì trâu ngựa, trở thành một cỗ máy lao động biết nói. Cô trở nên trơ lì, không còn thiết tha gì đến cuộc sống, không còn biết thế nào là đau đớn, khổ sở, tâm hồn Mị trở nên nguội lạnh như tro tàn.

Không chỉ bị đày đọa về thể xác mà nỗi đau của Mị còn đến từ những hoạt cảnh tù túng trong tâm hồn, khi mà lúc nào người ta cũng thấy Mị buồn rười rượi, đầu cúi xuống, không thiết tha nói năng. Căn buồng Mị ở chẳng khác nào một cái nhà tù khi chỉ có một cái lỗ vuông bé bằng bàn tay “lúc nào trông ra cũng thấy một màu trăng trắng không biết là sương hay là nắng”.

Ngoài ra một nỗi đau khổ khác của Mị ấy là nỗi đau bị chia cắt tình duyên và việc phải chung sống cả đời với người mà mình căm ghét – A Sử, một kẻ độc ác, vũ phu, chỉ biết chơi bời, nó không coi Mị là vợ mà coi cô như một nô lệ trong nhà, mặc sức đối xử tàn bạo.

Một cuộc đời như như vậy sao không khiến người ta trở nên tuyệt vọng, chai lì, lầm lũi như con rùa trong xó cửa cho được, nó có khác nào địa ngục trần gian, mà cái gian nhà giàu ấy chính là cái nhà tù chung thân được canh giữ bởi thần quyền và cường quyền, nó đã chà đạp, tàn phá tâm hồn và thể xác của những người đàn bà khốn khổ như Mị.

Sự thức tỉnh của Mị diễn ra một cách rất tự nhiên, khởi nguồn từ tiếng sáo gọi bạn trong đêm tình mùa xuân, những tưởng tâm hồn Mị đã hoàn toàn chết lặng, thế mà giờ đây nghe tiếng sáo réo rắt, vui tươi, nó lại mạnh mẽ thức tỉnh, tựa như một mầm cây non được sau bao ngày nắng hạn gặp mưa rào bỗng trỗi dậy.

Mị bỗng thấy yêu đời, Mị lẩm nhẩm hát theo tiếng sáo, Mị lặng lẽ nhớ về những ký ức vui vẻ ngày chưa về làm dâu nhà thống lý Pá Tra. Rồi Mị uống rượu, uống ừng ực từng bát như muốn trút hết tất cả những nỗi muộn phiền đau đớn, cô nhớ lại mình đã từng thổi sáo, thổi lá rất hay, thế là Mị lại lấy lá thổi lên những điệu nhạc vui tươi, yêu đời. “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết”.

Nói là làm Mị vào buồng mặc váy hoa, vấn lại tóc, thế nhưng A Sử về nó đã trói Mị lại, nó không cho Mị được đi chơi, cô tuy bị trói thế nhưng tâm hồn vẫn lơ lửng theo tiếng sáo ngoài đường. Mãi đến khuya khi vẩn vơ nghĩ về một người đàn bà trong nhà này đã từng bị trói cho đến chết, Mị mới giật mình sợ hãi “Mị sợ quá, Mị cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết.”

Sự đau đớn, nỗi sợ hãi chính là những minh chứng rõ ràng nhất cho sức sống tiềm tàng của Mị, hóa ra Mị vẫn còn ham sống, ham cuộc đời này lắm, Mị không muốn chết ngay tại đây, ngay bây giờ, Mị vẫn còn khao khát những hạnh phúc thanh xuân, khao khát tự do mãnh liệt và chúng đang bùng cháy trong trái tim người đàn bà trẻ, chỉ là chưa biết phải làm thế nào để đạt được những ước vọng ấy.

Đang trong lúc Mị bế tắc, thì sự xuất hiện tả tơi của A Phủ đã chỉ cho Mị một lối thoát đầy hy vọng, Mị đã bất chấp liều mình chạy theo A Phủ, tự trả lại tự do cho bản thân, hướng về một cuộc đời mới, thoát khỏi cái nhà tù tàn ác, bế tắc ấy.

Tất cả những biến đổi trong tâm lý của Mị, cũng như hành động táo bạo của cô đều bộc lộ những vẻ đẹp tâm hồn đáng quý đó là sức sống tiềm tàng mãnh liệt, sự phản kháng mạnh mẽ, khao khát tự do, hạnh phúc cháy bỏng trong tâm hồn. Tất cả đã trở thành động lực khiến Mị tự giải phóng, cứu vớt bản thân và cả A Phủ.

Còn đối với Chí Phèo, quá trình thức tỉnh của anh gặp nhiều gian truân và lắt léo hơn Mị rất nhiều, bản thân Chí cũng có một cuộc đời đầy bất hạnh, với những tấn bi kịch họa vô đơn chí tương tự Mị. Sống với thân phận mồ côi trôi nổi đến 20 tuổi với những ước vọng tươi đẹp thì lại bị tống vào tù chỉ vì sự lăng loàn của một người đàn bà và sự ghen tuông của một gã đàn ông bất lực sợ vợ.

Bảy tám năm sau cái nhà tù thực dân ấy đã trả lại cho làng Vũ Đại một tên lưu manh với ngoại hình gớm ghiếc. Không chỉ tha hóa về nhân hình mà ở Chí Phèo còn là sự tha hóa về nhân phẩm khi hắn trở nên thích uống rượu và ăn thịt chó, quen việc rạch mặt ăn vạ, cùng với những tiếng chửi làng, chửi đời, chửi người ghê gớm. Trượt dài trong sự tha hóa, Chí Phèo trở thành con quỷ dữ, bán rẻ linh hồn để kiếm mấy đồng lẻ phục vụ cho những cơn say dài chưa một lần tỉnh trong suốt 15 năm trời.

Sự thức tỉnh của Chí Phèo đã diễn ra tổng thể hai lần, lần đầu tiên ấy là nhờ Thị Nở, nhờ mối tình kỳ lạ với người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn, lại thêm tính dở hơi. Thế nhưng thị đã cho hắn sự quan tâm, ấm áp của một người mẹ, một người đàn bà có tâm hồn đẹp bằng bát cháo hành bốc hơi nghi ngút.

Chí Phèo bỗng nhận ra bản thân đã bước sang phía bên kia của cuộc đời, hắn đã già, cơ thể đã bắt đầu suy sụp, hắn không sợ chết nhưng lại sợ sống một cuộc đời cô đơn, lay lắt, Rồi hắn nhớ lại những ước mơ thuở đôi mươi, có một gia đình đầm ấm, chồng cày thuê vợ dệt vải, nuôi lợn, mua đất. Và hắn khao khát được làm những việc ấy với thị Nở, hắn muốn xây dựng gia đình với thị và thị sẽ là cây cầu đưa hắn về với thế giới loài người, để hắn hoàn lương và sống một cuộc đời mới.

Thế nhưng thật đớn đau thay, Chí Phèo chỉ vừa mới thoát ra khỏi cơn say dài được mấy ngày, mới có được những niềm hy vọng niềm vui sống thì nó đã lập tức bị đạp đổ bởi định kiến gay gắt của xã hội qua lời của bà cô Thị Nở “Ai lại đi lấy chồng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ”. Lời nói cay nghiệt ấy đã giáng một đòn chí mạng vào Chí Phèo, khiến hắn tỉnh mộng, ý thức thật rõ ràng về thân phận về cái số kiếp chất chồng đầy bi kịch và tội lỗi của mình, hắn đã không còn cơ hội quay trở về nữa rồi, hắn muốn lương thiện, nhưng ai cho hắn cái lương thiện quý giá ấy đây.

Đồng thời Chí Phèo cũng nhận thức được kẻ thù của mình, kẻ đã gây ra cho hắn biết bao bi kịch chính là Bá Kiến. Hắn cũng lựa chọn cách giải thoát cho bản thân như Mị, để giữ lại những thiên lương tốt đẹp còn sót lại trong người hắn. Thế nhưng khác so với Mị, kết thúc của quá trình thức tỉnh của Chí Phèo đó là một bi kịch. Hắn giết chết Bá Kiến, đồng thời tự tử để kết thúc một đời đầy bất hạnh đau thương và đầy tội lỗi của mình.

Chung quy lại, có thể thấy rõ ràng ở hai nhân vật Mị và Chí Phèo đều có những điểm chung ấy là những vẻ đẹp tâm hồn đáng quý như tấm lòng ham sống, khao khát hạnh phúc, tình yêu mãnh liệt.

Tuy nhiên nếu như bản thân Mị chọn cách chôn giấu, bao bọc tâm hồn của mình bằng lớp vỏ chai lì, khô cứng, không cảm xúc, thì Chí Phèo lại chọn cách phó mặc cho số phận, trượt dài theo con đường tội lỗi, chính vì thế đến tận cuối quá trình thức tỉnh, hai nhân vật có kết cục người tìm được tự do, hạnh phúc, người phải chịu bi kịch kết thúc cuộc đời, âu cũng là một hướng phát triển cốt truyện hợp lý và phù hợp với hoàn cảnh cũng như những tư tưởng mà hai tác giả muốn truyền tải cho người đọc.

Tổng hợp 🌸 Kết Bài Vợ Chồng A Phủ Hay 🌸 đa dạng!

So sánh nhân vật mị và liên

Liên Hệ Nhân Vật Mị Và Thị Xuất Sắc

Một trong những bài văn liên hệ nhân vật Mị và Thị xuất sắc nhất, mời bạn cùng xem:

Mị và Thị là những hình ảnh đại diện cho nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong thời đại xã hội xưa. Qua tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” và “Vợ Nhặt”, chúng ta đã có thêm những góc nhìn sâu sắc về số phận của người phụ nữ cũng như những vẻ đẹp tâm hồn tiềm ẩn bị vùi lấp trước bi kịch cuộc đời.

Khi so sánh nhân vật Mị và Thị, ta nhận ra đây đều là đại diện cho những người phụ nữ ở tầng lớp thấp của xã hội lúc bấy giờ. Tuy “mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh” nhưng cuộc đời của họ đều là một tấn bi kịch, thân phận thấp cổ bé họng, số phận “bèo dạt mây trôi”, túng quẫn vẫy vùng trong tuyệt vọng.

Nhân vật Mị – một đóa hoa vùng Tây Bắc hội tụ được những nét đẹp tâm hồn của người miền núi: Đẹp người, đẹp nết, cần cù, hiếu thảo và rất mực tài hoa. Ấy vậy mà đóa hoa tuyệt sắc đó lại phải gánh chịu kiếp sống giam cầm, trở thành một “cô con dâu gạt nợ”. Dưới sự áp bức đầy cường quyền thần quyền cùng hủ tục đè nặng, Mị gần như trở nên tê liệt. Cô trở nên mất sự phản kháng, trở nên con cam phận “mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.

Cô là một con người bằng xương bằng thịt nhưng lại chẳng thể tự quyết định số phận của mình. Vì cha mà Mị chẳng thể đành lòng mà tự vẫn, vì A Sử mà cô không thể đi chơi trong đêm tình mùa xuân. Danh nghĩa là con dâu cả nhưng thật ra lại là nô lệ mãn đời cho ngôi nhà ấy. Sự cam chịu đến thống khổ đã biến cô gái Mông sức sống mơn mởn và trở thành một con người lầm lũi, túng quẫn, héo hắt.

Không phải là kiếp sống giam cầm, mất tự do như Mị nhưng Thị trong “Vợ nhặt” lại phải lâm vào hoàn cảnh lay lắt giữa sự sống và cái chết, vật vờ trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.

Vì cái đói cái túng quẫn đeo bám, Thị trở thành một con người không còn gì cả. Không có tên, cũng chẳng có gốc gác, cô “gầy vêu rách như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” không quá khứ, mất luôn cả lòng tự trọng. “Thị gầy xọp” “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” chỉ nhìn đập vào mắt người đọc “hai con mắt trũng hoáy”. Tất cả các chi tiết đó không khiến chúng ta bàng hoàng và liên tưởng đến một bóng ma vật vờ không có sức sống.

Thị trải qua cuộc sống lê la, nay đây mai đó, chỉ sống qua ngày chứ chẳng còn tha thiết đến ngày mai. Vì vậy, cô nhanh chóng víu lấy nhân vật Tràng mà nào có cần nghĩ suy. Cái đói không chỉ vùi lấp sức sống vẻ ngoài của thị mà còn tàn tạ cả tính cách. Vì đói mà thị trở nên “chao chát”, “chua ngoa, đanh đá”. Thị “cong cớn”, “sưng sỉa” khi nói chuyện.

Cái đói khiến thị quên đi cả lòng tự trọng của một con người. Thấy cái ăn trước mặt, thì chẳng ngần ngại mà “sà xuống cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Thị rơi vào bi kịch theo không người ta về làm vợ chỉ để có cái ăn. Hoàn cảnh xô đẩy đã khiến tất cả bị che lấp, chẳng còn lòng tự trọng và vẻ đẹp nơi tâm hồn nữa. Xã hội khiến một người con gái tàn lụi như một cái xác không hồn.

Cùng cực là thế, đớn đau là thế nhưng ẩn sâu bên trong họ, khát vọng sống vẫn luôn âm ỉ cháy. Dù tưởng chừng đã ở đáy vực của sự tuyệt vọng, nhưng cả Thị và Mị lại luôn khát khao được sống, được tự do là chính mình, sống một cuộc đời đúng nghĩa chứ không phải chỉ là tồn tại.

Sức sống tiềm tàng mãnh liệt của Mị như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt, âm ỉ cháy suốt mạch chuyện. Tựa như một cây cỏ dại, tuy mỏng manh, yếu ớt nhưng bền bỉ, quật cường. Lần thứ nhất, nó trỗi lên mạnh mẽ lúc Mị mới trở thành con dâu gạt nợ. Tủi cực, buồn bã dồn đọng, Mị định ăn lá ngón tự tử. Nàng ý thức được sự tự do, vận mệnh của bản thân mình đã bị tước đi và trao cho kẻ khác. Tìm đến cái chết lúc đó mặc dù theo nghĩa tiêu cực như là một cách chạy trốn, giải thoát Mị khỏi những ràng buộc và khổ đau.

Lần thứ hai, nó được thể hiện trong đêm tình mùa xuân. Niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi nhen nhóm cháy khi tiếng sáo của trai làng gọi bạn tình mỗi mùa xuân đến. Mị nhớ da diết những ngày tháng tươi đẹp trong quá khứ. Thậm chí khi A Sử thản nhiên chà đạp ước mơ của Mị, trói nàng vào cột, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi”. Nỗi đau thể xác đã chẳng thể nào đè bẹp khát khao ấy.

Tất cả những nhân tố ấy như nhen nhóm từng chút, từng chút một, để rồi khi Mị chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, sức sống ấy đã bùng cháy quyết liệt, mạnh mẽ. Chính niềm đồng cảm giữa những con người cùng túng khổ đã lấn át tất cả, trong phút chốc làm tan biết cả nỗi sợ và cái chết rình rập, Mị cắt dây trói cứu A Phủ. Hành động cởi trói cho A Phủ hay cũng chính là Mị cởi trói cho cuộc đời mình.

Khi so sánh nhân vật mị và thị, ta thấy rất nhiều điểm tương đồng. Phía sau tình cảnh vất vưởng, nhân vật Thị vẫn âm ỉ khát vọng sống mãnh liệt. Thị sẵn sàng đồng ý theo Tràng làm vợ cũng chỉ là vì để được sống chứ không phải là lẳng lơ. Dù là đánh mất tôn nghiêm, tự trọng, nhưng đó là tất cả nỗ lực khát khao để có được miếng ăn, để được sống. Dẫu có rẻ mạt và tầm thường, chỉ với bốn bát bánh đúc, hai hào dầu, một thúng con là bán rẻ bản thân, nhưng để tồn tại thì còn ý chí nào mạnh mẽ, quật cường hơn thế?

Lúc thị về đến nhà Tràng, chứng kiến “ngôi nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, cô nàng bèn “nén một tiếng thở dài”. Tưởng chừng trong tiếng thở dài chỉ có sự ngao ngán, thất vọng, ấy thế nó còn chứa đựng bao lo lắng cho tương lai ngày mai. Thị trở nên trách nhiệm với mái ấm nhỏ của mình, Thị bắt đầu mơ, bắt đầu tin vào một cái kết lạc quan ở phía trước.

So sánh nhân vật Mị và Thị, dù hoàn cảnh khác nhau, nỗi bi ai thống khổ khác nhau nhưng vẻ đẹp ẩn chứa bên trong trái tim người phụ nữ đều sáng lấp lánh. Một người con gái kiên cường phá bỏ xiềng xích giam hãm mất tự do để sống một cuộc đời mới hay một người vợ vứt đi cái tôi để mưu cầu một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Tất cả đều thể hiện nội lực sinh tồn mạnh mẽ không gì dập tắt được. So sánh nhân vật mị và thị ta nhận ra Kim Lân và Tô Hoài đã tài tình khắc họa chân dung người phụ nữ trong xã hội mới với những phẩm chất tốt đẹp. Đó cũng chính là lời kêu gọi của cách mạng, của chủ nghĩa nhân đạo luôn tồn tại và cháy trong tim mỗi người phụ nữ Việt suốt hàng ngàn năm qua.

Bài văn 🌸 Phân Tích Vợ Chồng A Phủ 🌸 chi tiết!

So sánh nhân vật mị và liên

Liên Hệ Nhân Vật Mị Với Thúy Kiều Đơn Giản

Bài văn liên hệ nhân vật Mị với Thúy Kiều dưới đây được đánh giá hay và ngắn gọn, mời bạn xem ngay

Đúng như nhiều nhà phê bình đã nhận xét, hình tượng Mị là điểm sáng, là thành công nổi bật nhất của Tô Hoài khi viết Vợ chồng A Phủ. Bằng vốn hiểu biết phong phú, bằng niềm đồng cảm sâu sắc trước cuộc đời người phụ nữ lao động miền núi Tây Bắc và ngòi bút nghệ thuật tinh tế, Tô Hoài đã xây dựng nhân vật Mị thành hình tượng điển hình cho một thê hệ phụ nữ Tây Bắc đang từ thân phận nô lệ tối tăm vươn ra ánh sáng tự do với sức sống tiềm tàng.

Đọc tác phẩm, độc giả bắt gặp ngay hình ảnh Mị. Cô đang ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa nhà thống lí. Dường như sự xuất hiện của Mị thường gắn với cái không gian chật hẹp, bẩn thỉu này. Lúc nào cũng vậy, dù đang làm công việc gì, cô gái ấy cũng “cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.

Tô Hoài đã mở đầu truyện bằng một hình ảnh gợi ngạc nhiên, tô đậm ấn tượng vào lòng người đọc để từ đó quay lại kể về lai lịch Mị. Sinh ra trên đời, Mị đâu đã khổ. Tuổi thiếu nữ, cô từng được sống những tháng năm hạnh phúc, dù trong đói nghèo. Mị xinh đẹp, hát hay, có tài thổi sáo, từng được bao trai làng mê. Nhiều đêm mùa xuân, con trai đến thổi sáo “đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng nhà Mị”.

Một cô gái như thế, lẽ ra xứng đáng hưởng cuộc đời hạnh phúc. Nhưng Mị lại sinh ra trong một nhà nghèo và trăm sự cũng bởi cái nghèo, bởi bọn thống trị tham lam và độc ác. Vì món nợ truyền kiếp, vì tục cướp vợ của người H’mông mà cô gái tự do, trong trắng ấy bỗng chốc bị biến thành con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra.

Thời gian đầu bị bắt về nhà thống lí, “có đến mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”. Cô thấm thìa nỗi đau của một cuộc đời bị tước đoạt tự do. Đã có lần, Mị toan tìm đến cái chết để giai thoát. Nhưng rồi vì lòng thương bố mà Mị không đành chết. Cô vứt nắm lá ngón, lẳng lặng quay lại nhà thống lí chẳng khác gì trở về chốn địa ngục trần gian.

Từ đó, Mị âm thầm chấp nhận thân phận nô lệ. Cô không còn biết khóc, suốt ngày “lùi lũi” như con rùa nuôi trong xó cửa. Ngày nào cũng như ngày nào, Mị quần quật hết việc này sang việc khác, tưởng mình cũng là con trâu, con ngựa nhà thống lí. Dường như Mị đã mất ý niệm về thời gian, về tuổi trẻ. Cuộc đời đối với Mị lúc bấy giờ chỉ là một đêm dài thăm thẳm mà thôi.

Ngày trước, Thúy Kiều của Nguyền Du đã vì chữ hiếu mà hi sinh chữ tình. Với tình yêu, tuy lời thề chỉ mất đi kho biển cạn, núi mòn, nhưng chuyện làm con mới là lớn: Làm con trước phải đền ơn sinh thành! Kiều đành phải bán mình để có tiền chuộc cha và em trai.

Liên Hệ Mị Với Người Đàn Bà Hàng Chài

Mời bạn đọc xem ngay 1 số bức tranh mẫu đẹp nhất về ở ngay bên dưới:

Có thể nói truyền thống văn học Việt Nam ta từ xưa đến giờ luôn mang một giá trị nhân đạo sâu sắc. Và đến thời hiện đại ta gặp những nhà văn tài hoa đã thật sự mang được hơi thở của lòng nhân đạo đến trong từng tác phẩm. Trong những nhà văn ấy, Nguyễn Minh Châu và Tô Hoài đã gặp nhau với hai tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” và “Vợ chồng A Phủ”. Hai tác phẩm đều nêu cao tinh thần vì con người và hơn hết là người phụ nữ.

Có thể thấy ngoại hình hai người phụ nữ cũng khác nhau: người đàn bà hàng chài thì “cao lớn”, “thô kệch”, “rỗ mặt”; Mị là một cô gái trẻ trung yêu đời, “có biết bao người mê”.

Số phận của họ cũng đi về hai hướng khác nhau. Mị thì sống trong thời chiến tranh, bị những kẻ thống trị hà hiêp, cướp mất quyền tự do con người. Tuy người đàn bà hàng chài sống trong thời hòa bình nhưng cái nghèo đói vẫn đeo bám bà từng ngày, khiến gia đình bà không lúc nào yên ổn.

Và từ mỗi tình huống trên mỗi nhân vật bộc lộ những nhân cách khác nhau.

Mặc dù không muốn nhưng Mị phải sống trong cảnh nô lệ, “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Trong Mị lúc nào cũng có một sức sống tiềm tàng vẫn cháy âm ỉ và sẵn sàng bộc lộ khi gặp cơ hội. Và ngọn lửa tình thương nơi Mị cũng chưa bao giờ tắt. Khi nhìn thấy “dòng nước mắt lấp lánh” của A Phủ, tình thương trở thành lòng đồng cảm nơi Mị khiến cô “cắt nút dây mây” giải thoát cho cuộc đời hai con người.

Còn với người đàn bà, bà phải sống trong cảnh như vậy hoàn toàn là do ý nguyện của bà. Hoàn toàn khác với vẻ bề ngoài của mình, bên trong bà là một tâm hồn lớn, một con người sâu sắc! Tất cả những gì bà làm, bà chịu đựng chưa bao giờ vì bản thân mình tất cả đều vì chồng con.

Không những phải chịu đựng như thế bà vẫn không bao giờ trách chồng mình mà luôn nhận lỗi về mình trong khi có thật sự lỗi là ở người phụ nữ tội nghiệp này? Từ những điều người phụ nữ này nói đã làm Đẩu-vị Bao Công phố huyện miền biển phải vỡ ra vì sự sâu sắc và kinh nghiệm sống của một con người tưởng như lạc hậu, kém hiểu biết.

Qua đây chúng ta nhận thấy cả hai người phụ nữ trên đều đại diện cho xã hội lúc bấy giờ. Cả hai đều đại diện cho những con người Việt Nam với những nhân phẩm tốt đẹp đầy kiên cường và đầy lòng vị tha. Và tác giả cũng cho chúng ta một cái nhìn tôn trọng hơn với những người phụ nữ, họ thật sự là một phần không thể thiếu của xã hội này.

Xem thêm 🌸 Giới Thiệu Về Nhân Vật Mị 🌸 ngắn gọn!

So sánh nhân vật mị và liên

Liên Hệ Mở Rộng Nhân Vật Mị Nâng Cao

Bạn có thể tham khảo bài văn liên hệ mở rộng nhân vật Mị nâng cao phía dưới để làm bài hay hơn!

Trong văn xuôi hiện đại Việt Nam ở thế kỷ XX thì đề tài miền núi khá là được chú ý. Dù chủ đề cũ nhưng nhà văn luôn có cách khai thác vấn đề rất sâu, làm bật lên hình ảnh nhân vật. Mỗi nhà văn sẽ có những cái nhìn khác nhau và Tô Hoài đã thể hiện sự đồng cảm trước thân phận khổ đau của người dân miền núi, đặc biệt là phụ nữ. Điển hình trong tác phẩm này là Mị của Tô Hoài sẽ khác với những nhà văn khác, đó là một điểm riêng ở Tô Hoài.

Trong Vợ Chồng A Phủ Mị được khắc họa lên là một cô gái có số phận éo le, tủi phận nhưng phẩm chất đẹp vô cùng. Cô gái đẹp người Mèo này sống trong thời đại phong kiến đầy rẫy những phong tục vô lí, áp bức. Bố mẹ Mị khất nợ nên Mị chính là người bị bắt để trả món nợ này, chủ nợ là Thống lí Pá Tra đòi bắt về làm dâu gạt nợ.

Từ đây bao đau thương, tủi nhục của cô gái này bắt đầu xảy ra, mang danh là về làm dâu nhưng thực chất là nô lệ cho nhà thống lí. Mị trở thành một cô gái vô cảm trước mọi thứ, tê liệt ý thức, sống mà như không sống chính vì những thói áp đặt, vũ phu đánh đập, tra tấn tàn bạo khiến Mị đau khổ không nói nên lời, cuộc sống từng phút giây như đày đọa.

Từ khi cuộc sống của Mị bị cuồng chân trong nhà Thống Lí thì những giấc mơ của Mị tan biến, phai mờ dần trong tâm trí và cô ngày ngày phục vụ không công còn bị đối xử tàn ác. Khi làm dâu nhà giàu những tưởng Mị sẽ có một cuộc sống hạnh phúc, đủ đầy nhưng không phải, tất cả chỉ là vỏ bọc bên ngoài. Mị ngày qua ngày lầm lũi trong bếp, nơi xó cửa làm việc quần quật từ sáng đến khuya. Năm này qua năm khác Mị chỉ quanh quẩn trong căn phòng mờ tối, một chút ánh sáng lọt qua khe cửa sổ bé tí chẳng biết là sương hay khói.

Dù rằng bên ngoài thấy Mị mặc kệ trước mọi thứ nhưng sâu thẳm trong tâm hồn của cô gái trẻ này vẫn luôn âm ỉ một khát khao cháy bỏng được tự do, được sống là chính mình, cuộc sống của riêng cô. Lòng ước muốn ấy nó như lớp lửa nhỏ âm ỉ trong lớp tro tàn kia, chỉ cần một làn gió thổi qua sẽ khiến nó bùng thật mạnh mẽ. Chính vì bị ép vào đường cùng, thương và hiếu thảo với cha mẹ nên Mị phải hi sinh bản thân để cứu gia đình nên cô đành sống khiếp người đen tối, đau khổ.

Đêm mùa xuân năm ấy lại đến rộn ràng, náo nức khắp đất trời với tiếng nhảy múa, ca hát, thổi sáo hòa trong bản giao hưởng thiên nhiên. Lúc này ở trong nhà nghe vọng vào, Mị không còn lầm lì trong cảm xúc chai sạn nữa, cảm xúc được đánh thức trở lại. Tiếng sáo vang lên trong đầu Mị những giai điệu vui tươi, Mị nhẩm bài hát nhớ về những tháng ngày đẹp đẽ đã từng có. Không chịu đựng Mị lấy rượu uống ừng ực để quên đi bao sầu đau, tủi hờn.

Khi đó Mị như thấy mình trẻ lại, Mị vui lắm hừng hực sức sống trở lại và Mị vùng lên sửa soạn đi chơi. Thế nhưng mọi thứ đang dang dở thì A Sử phát hiện và trói Mị vào cột. Lúc này cơn đau từ tâm hồn đến thể xác trỗi dậy. Mị khao khát được đi chơi nhưng A Sử đã dập tắt, bóp chết khát khao mong manh kia.

Một lần nữa sức sống trong Mị trỗi dậy mãnh liệt khi nhìn thấy A Phủ – một tôi tớ cho Thống Lí đang bị trói. Nước mắt của A Phủ rơi xuống thức tỉnh Mị phải vùng dậy đòi lấy quyền được sống, được yêu thương, tự do cho chính mình. Thế là Mị đã cùng A Phủ trốn thoát tìm lấy cuộc sống tự do của riêng họ.

Tô Hoài đã rất tài tình trong nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật Mị. Chính ngòi bút tinh tường ấy đã dẫn lối người đọc len lỏi vào trong tâm hồn, cảm xúc của Mị, nổi bật lên vẻ đẹp tâm hồn của cô gái này.

Liên hệ với nhân vật Mị là nhân vật Liên là một cô bé sống trong đói khổ nhưng có một tâm hồn lạc quan luôn hướng tới cuộc sống tươi đẹp hơn. Tâm hồn của Liên luôn khao khát, hướng về ánh sáng trong màn đêm, luôn tìm kiếm một nguồn sáng từ một nơi xa xôi.

Liên chờ đợi chuyến tàu không phải để bán hàng mà để được chiêm ngưỡng cuộc sống náo nhiệt, nguồn sáng rực rỡ của con tàu như mang đến một thế giới khác, một cuộc sống khác. Có lúc Liên cảm thấy cô đơn giữa đám đông, bao phủ bởi bóng tối đang lan tràn, nhưng cô vẫn tiếp tục tìm kiếm một nguồn sáng, một hy vọng để chạm tới giấc mơ của mình. Dù có bao khó khăn, cô vẫn sẽ đi đến cuối con đường, tìm thấy nguồn sáng và hy vọng tươi sáng cho cuộc đời mình.

Hai nhân vật Liên và Mị đã khiến cho người đọc cảm nhận được vẻ đẹp khát vọng sống của con người. Tâm hồn của họ luôn hướng về ánh sáng, về âm thanh cuộc sống cũng chính là niềm khao khát được sống, được yêu thương và hạnh phúc. Họ đều hi vọng thoát khỏi hiện thực tối tăm. Nhưng cuối cùng, cuộc đời Liên vẫn mãi chìm trong “bóng tối”, còn Mị đã được đổi đời nhờ có tinh thần đấu tranh từ tự phát đến tự giác;

Qua khát vọng sống của 2 nhân vật, ta thấy được tấm lòng nhân đạo của nhà văn Thạch Lam và Tô Hoài. Các nhà văn có cùng niềm cảm thông với nỗi khổ của những người phụ nữ bất hạnh dưới chế độ thực dân phong kiến; ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của người dân; đặc biệt ca ngợi khát vọng sống cao đẹp của họ. Đó cũng chính là niềm tin vào con người của các tác giả văn xuôi hiện đại Việt Nam.

Bằng giọng văn mềm mại cùng lối kể chuyện hấp dẫn, Tô Hoài đã đưa người đọc vào thế giới Hồng Ngài xinh đẹp mà u buồn, ở đó có bóng dáng cô Mị sống lầm lũi, bĩ cực đang lao đao đi tìm lẽ sống cho riêng mình. Nhà văn đã phát huy biệt tài miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế để từ đó nhân vật của ông sống dậy, vùng vẫy, run rẩy phập phồng trên trang văn dày đặt ngôn từ. Trên hết vẫn là tư tưởng nhân đạo cao quý mà Tô Hoài đã gửi gắm

Hình ảnh 🌸 Sơ Đồ Tư Duy Nhân Vật Mị 🌸 dễ nhớ!

So sánh nhân vật mị và liên

Liên Hệ So Sánh Nhân Vật Mị Học Sinh Giỏi

Nếu vẫn chưa biết cách liên hệ nhân vật Mị thì xem thêm mẫu của học sinh giỏi sau đây!

Trong nền văn học Việt Nam hiện đại giai đoạn 1945-1975, song hành cùng với thơ, truyện ngắn cũng là một thể loại mang lại nhiều thành tựu nổi bật. Nhiều chủ đề được nhà văn khai thác cụ thể như: Người lính, tình cảm gia đình, người nông dân…

Nhưng có thể nói, hình tượng người phụ nữ Việt Nam như một sợi chỉ đỏ, xuyên suốt nền văn học nước nhà với đa dạng khía cạnh, góc nhìn khác nhau từ mỗi nhà văn. Khi liên hệ nhân vật Mị và Thị Nở sẽ mở ra cho chúng ta thấy những khía cạnh chân thực và rõ nét cuộc sống của những người phụ nữ xưa.

Mị vốn là cô gái Mèo xinh đẹp, trẻ trung và có tài thổi sáo. Đây là dấu hiệu của một vẻ đẹp tâm hồn phong phú và lãng mạn,biểu hiện một sức sống trẻ trung, rạo rực.Mị đã từng được yêu và cô cũng đã từng yêu. Trái tim giàu khao khát của cô đã từng rung động trước tiếng gọi của tình yêu, hồi hộp trước những âm thanh tiếng sáo mời gọi bạn tình.

Lẽ ra một người con gái sơn cước xinh đẹp như Mị phải có một cuộc đời hạnh phúc. Nhưng bất hạnh lại ập đến với nàng khi phải làm dâu gạt nợ cho nhà Thống lí Bá Tra. Đó là cái cảnh ngộ làm dâu trên danh nghĩa còn thực tế Mị chẳng khác gì một kẻ ăn người ở trong nhà, thậm chí nàng còn không bằng con trâu con ngựa.

Mị mới ngày nào còn là cô gái tươi tắn, xinh xắn giờ đã biến thành một cái xác không hồn, dần dần Mị trở nên chai sạn và cạn kiệt sức sống “lùi lũi như một con ùa nuôi xó cửa”.

Còn thị Nở dưới ngòi bút của Nam Cao hiện lên như sự trêu đùa trớ trêu của tạo hóa: xấu, nghèo, dở hơi và dòng giống mả hủi. Chỉ với vài dòng miêu tả ngắn gọn và gọng văn lạnh tanh của Nam Cao, Thị Nở hiện lên là một người phụ nữ xấu xí, nhưng đâu đó trong tâm hồn Thị, Thị vẫn khao khát và mưu cầu hạnh phúc như bao người.

Thị Nở là một cô gái nghèo, cái nghèo đeo bám khiến thị chẳng dám nghĩ đến việc tìm kiếm hạnh phúc cho đời mình. Cả làng Vũ Đại ai cũng biết đến Thị, vì ngoại hình xấu “ma quê quỷ hờn”. Vì nghèo, Thị phải đi gánh nước thuê để kiếm sống qua ngày. Phải chẳng vì nghèo, vì xấu xí như Chí Phèo, nên họ đã đồng cảm số phận và đến với nhau không?

Khi so sánh nhân vật Mị và Thị Nở, chúng ta sẽ phát hiện những điểm chung của cả hai nhân vật này. Điểm chung đầu tiên đó là cả hai nhân vật đều có vẻ đẹp tâm hồn và sức sống mạnh liệt.

Trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, Nam Cao đã thành công khi phát hiện ra bên trong tâm hồn Mị vẫn còn ẩn chứa một sức sống tiềm tàng. Và trong tác phẩm của mình, nhà văn đã miêu tả thành công sự trỗi dậy mạnh mẽ sức sống tiềm tàng ấy bằng một quá trình phát triển tâm lý, hành động khá sâu sắc và hợp lý.

Ngay khi bị rơi vào cảnh làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lý, hàng tháng đêm nào Mị cũng khóc. Mị cầm nắm lá ngón về nhà lạy chào vĩnh biệt cha. Cô định tự tử vì ý thức được sự tủi nhục của bản thân mình.

Nhưng sự uất ức đến nỗi muốn chết ấy là biểu hiện của một lòng ham sống mãnh liệt nơi Mị. Vì Mị không muốn tiếp tục kiếp sống nhục nhã, sống mà hơn chết ở nhà thống lý Bá Tra. Người đọc khi so sánh nhân vật Mị và Thị Nở, sẽ thấy hình ảnh Mị trong những khoảnh khắc này chính là sự tột cùng của đau khổ và tủi hờn…

Sức sống mãnh liệt còn thể hiện ở đêm mùa đông cứu A Phủ. Khi ý thức được bản thân mình và nhận ra bộ mặt xảo trá của nhà thống lý, nàng đã quyết định đứng dậy cắt dây trói cứu A Phủ và bất giác chạy theo anh, cùng trốn khỏi Hồng Ngài. Hành động tuy bộc phát nhưng thật quyết liệt đó là kết quả tất yếu của quá trình bị dồn nén vào đường cùng, phải tự cứu người và cứu mình.

Thị Nở là một người phụ nữ tuy xấu xí nhưng lại có những phẩm chất rất đáng trân trọng. Đằng sau hình hài xấu xí của Thị Nở là những ước mơ hạnh phúc gia đình hay chính hạnh phúc đã làm thay đổi Thị từ một phụ nữ ngẩn ngơ để giờ đây Thị biết ngượng ngùng khi nghĩ về hai từ “vợ chồng”. Rõ ràng đây là một con người hoàn chỉnh cho dù tạo hóa thật bất công khi không cho Thị những tài sản mà lẽ ra người con gái phải có.

Qua cái nhìn nhân đạo của nhà văn, chúng ta không chỉ đồng cảm mà còn rất trân trọng Thị Nở, trân trọng Mị với những nét đẹp tâm hồn và sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Cũng như nhiều nhân vật phụ nữ xưa khi bước vào văn học thi ca, so sánh nhân vật Mị và Thị Nở chính là câu trả lời điển hình nhất về số phận của họ trong xã hội cũ.

Để tạo nên sự riêng biệt của mỗi nhân vật, nhà văn phải có những khám phá rất riêng về nhân vật của mình. Vậy nên để nhìn thấy những nét riêng ấy, chúng ta phải so sánh nhân vật Mị và Thị Nở ở nhiều phương diện. Đồng thời tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt ấy.

Nhân vật Mị có một cái kết tốt đẹp hơn so với Thị Nở vì Mị ý thức được ánh sáng Cách Mạng. Ở kết truyện, Mị rời khỏi Hồng Ngài được giác ngộ CM, trở thành du kích. Mị tin tưởng vào một ngày mai tươi sáng, nơi có ngọn cờ Cách Mạng soi chiếu và cuộc đời của Mị, A Phủ sẽ sang một trang mới.

Còn với Thị, dù sống ở một xã hội phong kiến với những định kiến lạc hậu, Thị phải chấp nhận sống và không thể thay đổi được số phận của mình. Mị dám vùng dậy đứng lên đòi lại quyền sống cho bản thân, nhưng Thị thì không. Ở kết truyện, Nam Cao miêu tả Thị đang đứng ở lò gạch cũ và nhìn xuống bụng của mình. Phải chăng sẽ có những Chí Phèo con ra đời? Phải chăng cuộc sống Thị sẽ lại tiếp tục lầm lũi và cô độc tới già?

Nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt ở hai nhân vật đó là do hoàn cảnh sáng tác và phong cách của mỗi nhà văn. Đây chính là lý do tạo nên sự khác biệt và những nét riêng cho nhân vật của mình. So sánh nhân vật Mị và Thị Nở, ta thấy nhà văn không chỉ dừng lại ở thấu hiểu, cảm thông mà ngòi bút của họ còn bênh vực cho người nông dân, đấu tranh với tầng lớp thống trị phong kiến và các hủ tục xã hội.

Qua nhân vật Thị Nở và Mị, tác giả thể hiện tình cảm yêu thương chân thành của mình đối với con người, đặc biệt là những người phụ nữ có số phận bất hạnh. Ngòi bút nhân đạo của mỗi nhà thơ đã khơi sâu vào nỗi đau bi kịch của con người Không chỉ dựng lại ở sự thấu hiểu mà ngòi bút nhân đạo của mỗi nhà văn còn bênh vực cho người nông dân, đấu tranh với tầng lớp thống trị phong kiến và các hũ tục xã hội.

Ở hai tác phẩm đều có giá trị hiện thực khi phản ánh chân thực xã hội phong kiến bất công, tàn bạo, phản ánh số phận của những con người bị áp bức, bất công như Thị Nở và Mị. Đồng thời, mỗi tác phẩm đều tái hiện rõ nét bức tranh xã hội thời đó với những phong tục tập quán của miền núi, miền xuôi.