Tại sao Tấm, lại biến thành quả thị
Câu hỏi hot cùng chủ đề
(Tố Hữu) Bốn câu thơ lại gợi nhắc ta xót xa nhớ về câu chuyện dân gian “Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ” với hình ảnh một vị vua tài giỏi trong buổi đầu dựng nước đã đánh tan các cuộc xâm lăng hung bạo của kẻ thù nhưng cuối cùng lại thất bại một cách đau xót, trong giây phút chủ quan đã để cho giang sơn xã tắc tuột khỏi tầm tay, làm nên một bài học kinh nghiệm xương máu khó có thể nào quên. Đọc “An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thuỷ” ta thật khó giấu nổi niềm xót xa trước bi kịch mất nước Âu Lạc và cả bi kịch tình yêu của nàng công chúa Mị Châu. Trong truyền thuyết dân gian, An Dương Vương xuất hiện như một vị vua toàn tài, luôn mang trong mình một tinh thần chống giặc ngoại xâm mạnh mẽ. Nhờ sự giúp đỡ của thần Kim Quy, ngài đã xây được Loa thành vững chắc và chế được nỏ thần - một vũ khí vô cùng lợi hại, bách phát bách trúng, có thể giết chết hàng nghìn quân giặc. Năm ấy,Triệu Đà cử binh xâm lược phương Nam, song vì Âu Lạc có nỏ thần nên quân Đà thua lớn, bèn xin giao hoà. Không bao lâu sau, Đà tìm cách cầu hôn cho con trai mình với con gái An Dương Vương. Vua Âu Lạc đã vô tình gả con gái yêu là Mị Châu cho Trọng Thuỷ. Vua nào ngờ Trọng Thuỷ đã tỉ tê trò chuyện với Mị Châu để tìm hiểu bí mật nỏ thần. Và Mị Châu - một người con gái nhẹ dạ cả tin đã thành thật giải thích cặn kẽ cho chồng từ cách làm lẫy nỏ đến cách bắn tên, tạo điều kiện cho Trọng Thuỷ có thể chế nỏ giả, đánh tráo nỏ thần. Ít lâu sau, Trọng Thuỷ từ biệt vợ với lý do “tình vợ chồng không thể lãng quên, nghĩa cha mẹ không thể vứt bỏ” và nói dối Mị Châu về phương Bắc thăm cha. Triệu Đà được lẫy nỏ cả mừng bèn cử binh sang đánh. Vua An Dương Vương không hề hay biết nỏ thần bị đánh tráo, khi giặc tiến sát đến thành vẫn ung dung ngồi đánh cờ, cười mà nói rằng “Đà không sợ nỏ thần sao?”. Cho đến khi quân Đà tiến sát lắm rồi, vua mới lấy nỏ thần ra bắn, thấy nỏ đã mất, không còn cách nào khác đành bỏ chạy. Vua đặt Mị Châu ngồi đằng sau ngựa rồi chạy về phương Nam. Thế là theo lời giao ước, những chiếc lông ngỗng trên áo Mị Châu đã chỉ đường cho Trọng Thuỷ lần theo mà đuổi. Đến đường cùng, vua bèn kêu rằng “Trời hại ta, sứ Thanh Giang ở đâu mau mau lại cứu”. Rùa vàng nổi lên mặt nước, thét lớn “kẻ nào ngồi sau ngươi chính là giặc”, Vua tuốt kiếm chém chết Mị Châu và Rùa vàng rẽ nước dẫn vua xuống biển. Vì sao một con người tài trí như vậy lại có thể đánh mất cơ nghiệp lớn lao trong phút chốc? Phải chăng nhà vua đã quá chủ quan khi trong tay có được nỏ thần? Đúng như vậy. Nỏ thần là một vũ khí lợi hại, chính nhờ nó mà An Dương Vương đã đánh thắng quân giặc nhưng cũng chính vì nó mà vua đã trở nên chủ quan khinh địch, mất cảnh giác trước những mưu kế bẩn thỉu của bọn xâm lăng. Vua cũng đã rất cả tin khi nhận lời cầu hôn của Triệu Đà. Nước mất nhà tan còn do nhà vua không nắm vững nội bộ của mình. Ngài không hiểu hết được tính cách của con gái yêu Mị Châu là nàng công chúa hết sức thật thà, nhẹ dạ cả tin, không hề mảy may nghi ngờ chồng cho dù là một giây một phút. Nàng đã thực sự yêu Trọng Thuỷ, cũng vì quá tin tưởng vào hắn mà Mị Châu đã vô tình trao cho hắn bí mật quốc gia. Nỗi đau mất nước ấy quả thật là quá lớn. Nhưng ta lại càng đau xót trước tình yêu chân thành của nàng công chúa phương Nam. Mị Châu có tất cả phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ truyền thống, nhưng cũng từ những phẩm chất ấy, do mù quáng, nàng đã hại cha, hại dân, hại nước. Trước sau nàng chỉ nghĩ đến Trọng Thuỷ và hạnh phúc của nàng. Nàng một lòng tin tưởng và yêu thương chồng. Nàng đã dành cho chồng một tình yêu vô cùng chân thành và tha thiết. Ấy thế mà Trọng Thuỷ – con người bội bạc kia đã nỡ tâm chà đạp lên tình yêu đó. Hắn cưới nàng làm vợ chỉ vì mục đích lợi dụng để xâm lược Âu Lạc. Nhưng vì sao Mị Châu quá mê muội ? Sao nàng lại có thể bỏ qua những câu nói lạ lùng, ẩn chứa bao hàm ý của Trọng Thuỷ trong lúc hai người chia tay: “Ta nay trở về thăm cha, nếu như đến lúc hai nước thất hòa, Bắc Nam cách biệt, ta lại tìm nàng, lấy gì làm dấu?”. Câu hỏi ấy của Trọng Thuỷ như một gợi nhắc, cảnh báo trước chuyện gì sẽ đến với đất nước nàng, Nhưng nàng lại thật thà đáp lại: “Thiếp thân phận nữ nhi, nếu gặp cảnh biệt ly thì đớn đau khôn xiết. Thiếp có áo gấm lông ngỗng thường mặc trên mình, đi đến đâu sẽ bứt lông mà rắc ở ngã ba đường để làm dấu, như vậy có thể cứu được nhau”. Và chính cái dấu lông ngỗng của nàng đã đẩy hai cha con vào bước đường cùng. Tại sao trong cái giây phút nguy hiểm ấy, quân Đà đang tiến đánh cha mình mà nàng vẫn còn cả tin đến mê muội, đem rắc lông ngỗng trên đường đi làm dấu hiệu báo cho giặc? Để rồi cuối cùng nàng nhận được từ cha một cái chết đau đớn tột cùng, một cái chết chất chứa bao niềm căm hận, tủi cực, một cái chết cùng bao điều thức tỉnh muộn màng từ cả cha nàng và nàng. Liệu Mị Châu có đáng phải chịu hình phạt ấy không ? Thật khó khăn và đau xót cho vua An Dương Vương vì nhát kiếm chém con ấy là ranh giới giữa tình yêu nước mãnh liệt và tình yêu con tha thiết. Nhưng tất cả đều đã muộn. Cảnh “quốc phá gia vong”, cơ nghiệp lớn lao phút chốc chỉ còn mây khói đâu chỉ do mình sự mê muội của Mị Châu mà còn do sự chủ quan khinh địch, mất cảnh giác của chính nhà vua nữa. Vậy người xưa muốn nói gì cho thế hệ đời sau qua truyền thuyết “An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ”? Đó là một bài học kinh nghiệm lớn lao trong việc bảo vệ quyền độc lập tự chủ của dân tộc. Câu chuyện nhắc nhở chúng ta phải luôn cảnh giác cao trước mọi thế lực thù địch để bảo vệ hạnh phúc gia đình. Chuyện cũng là bài học sâu sắc cho những người đang yêu và sẽ yêu. Hãy đừng vì quá yêu mà trở nên mê muội, mù quáng để rồi dẫn đến sự lợi dụng, dối trá trong tình yêu. Hãy luôn sống chân thành với trái tim mình, dành cho nhau tình cảm xuất phát từ đáy lòng. Đừng bao giờ chà đạp lên tình yêu của người khác như Trọng Thuỷ – một con người mưu mô, tham vọng không biết tôn trọng giá trị đích thực và vĩnh hằng trong cuộc sống. Người xưa đã sáng tạo nên truyền thuyết lịch sử đầy cảm động, xót xa. “Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ” vẫn mãi là một câu chuyện, một bài học lớn lao về bi kịch mất nước và bi kịch tình yêu đã từng diễn ra trong lịch sử. Truyền thuyết ấy sẽ còn tiếp tục được kể cho muôn thế hệ con cháu đời sau để cùng nhau khắc cốt, ghi tâm, lời căn dặn cảnh giác trước kẻ thù để bảo vệ quê hương đất nước, bảo vệ quyền độc lập thiêng liêng và hạnh phúc của mỗi gia đình .
Đề bài: Cảm nhận về vẻ đẹp nhân vật Tấm trong truyện Tấm Cám Cảm nhận về vẻ đẹp nhân vật Tấm năm 2021 môn Ngữ văn lớp 10 gồm dàn ý, 5 bài phân tích mẫu và sơ đồ tư duy phân tích giúp học sinh lớp 10 có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn. Cảm nhận về vẻ đẹp nhân vật Tấm năm 2021 - bài văn mẫu 1 Những câu chuyện cổ tích đã trở thành một phần tuổi thơ của biết bao con người Việt Nam, nơi mà những người con gái thảo hiền nết na với hoàn cảnh khó khăn nhưng nhờ sự giúp đỡ của ông Bụt, bà Tiên mà thay đổi số phận và giành được hạnh phúc viên mãn cho mình. Một trong những nhân vật như thế mà em ấn tượng nhất là nhân vật cô Tấm trong truyện cổ tích Tấm Cám. Trong hiểu biết và kí ức của em, cô Tấm hiện lên bao giờ cũng đẹp, đẹp về cả ngoại hình và nhân cách. Cô Tấm hiện lên qua những trang truyện được gắn liền với những đồ vật nhỏ bé , giản dị và cô cùng đáng yêu. Đó là chú cá Bống ngoan ngoãn được Tấm nuôi trong giếng mà mỗi lần nghe tiếng gọi “Bống bống bang bang, lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta, chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người” của Tấm lại ngoi lên mặt nước. Đó là chiếc hài nhỏ xinh xắn được vua đưa ra làm thử thách chọn vợ, khiến biết bao cô gái đi xem hội thất vọng nhưng lại giúp Tấm trở thành hoàng hậu vợ vua. Đó là con chim vàng anh, là khung cửi, là cây xoan đào mà Tấm hoá thân thành sau mỗi lần bị mẹ con Cám hãm hại. Đó còn là quả thị được bà lão hàng nước mang về, ngày ngày hiện thân ra giúp bà lão làm việc nhà và têm những miếng trầu cánh phượng, nhờ vậy mà nhà vua đã nhận ra, đưa Tấm trở lại hoàng cung, trở lại với hạnh phúc mà vốn thuộc về Tấm. Qua những vật nhỏ ấy, Tấm lại hiện lên thật xinh đẹp, thật đáng yêu, đáng quý trọng không chỉ bởi vẻ đẹp bề ngoài mà còn bởi vẻ đẹp tính cách với sự nết na, chăm chỉ và vô cùng hiến thảo. Đối với chú cá bống nhỏ bé, Tấm sẵn sàng nhường cho nó phần cơm vốn đã ít ỏi của mình. Thậm chí khi đã trở thành hoàng hậu mẫu nghi thiên hạ giàu sang phú quý, Tấm vẫn không quên ngày giỗ cha và sẵn sàng tự mình leo cây cau để hái cau giỗ cha. Song cũng như bao nhân vật trong truyện cổ tích khác, Tấm càng nết na, thảo hiền bao nhiêu thì cuộc đời lại càng bất công với cô bấy nhiêu, người đọc chúng ta không khỏi xót thương, đau lòng cho cuộc đời gian truân của cô Tấm thảo hiền. Ngay từ khi còn nhỏ Tấm đã mồ côi mẹ, rồi khi cha mất đi để lại Tấm phải sống cùng với mụ dì ghẻ độc ác và người em cùng cha khác mẹ là Cám. Người ta vẫn nói rằng “Mấy đời bánh đúc có xương/ Mấy đời dì ghẻ lại thương con chồng”, có lẽ cũng vì thế mà Tấm sớm phải trải qua một cuộc sống với cảnh ngày ngày bị hai mẹ con Cám bóc lột, đày đoạ thậm tệ. Mọi công việc nặng nhẹ trong nhà đều do một tay Tấm làm hết, sống cùng hai mẹ con Cám thì Tấm chẳng khác nào người ở cho hai mẹ con độc ác ấy. Khi còn ở nhà thì Tấm bị Cám lừa trút hết tôm cá mà chiếm chiếc yếm đào, khi có duy nhất chú cá bống nhỏ bầu bạn thì bị hai mẹ con Cám lừa làm thịt mất, khi có lễ hội thì cũng bị hai mẹ con ấy lừa không cho đi xem hội và ngay cả khi Tấm trở thành hoàng hậu, những tưởng đã có thể chạm tay đến hạnh phúc thì tiếp tục năm lần bảy lượt bị mẹ con Cám hãm hại bằng những thủ đoạn độc ác nhất. Cuộc đời cô Tấm nết na, thảo hiền nhưng mới đau khổ và nhiều khổ đau làm sao. Cô Tấm phải trải qua bao nhiêu là kiếp nạn mới có thể giành được hạnh phúc cho mình và những đau khổ, kiếp nạn ấy khiến người đọc không khỏi rơi nước mắt xót thương, thương cảm. Mỗi một câu chuyện, một nhân vật trong văn học đều mang một dụng ý và cô Tấm cũng không ngoại lệ khi mang trên mình thông điệp được người xưa gửi gắm, đó là sự vận động, phát triển của con người lương thiện đấu tranh chống cái ác. Cô Tấm xuất hiện ở đầu truyện là một cô gái xinh đẹp, thảo hiền nhưng lại có phần quá nhu mì, yếu đuối. Mỗi lần Tấm bị hai mẹ con chèn ép, hãm hại thì cô chỉ biết bưng mặt khóc than cho số phận rồi sẽ xuất hiện ông Bụt với phép màu giúp Tấm vượt qua khó khăn, thử thách. Một cô Tấm như thế khiến người đọc cảm thấy xót thương cho số phận nhưng cũng không ít người cảm thấy “bực mình” vì sự mềm yếu, quá nhu nhược ấy của Tấm bởi nếu không có ông Bụt thì cuộc đời Tấm liệu sẽ đi về đâu? Nhưng rồi Tấm đã không khiến độc giả chúng ta phải thất vọng khi sau những lần bị mẹ con Cám hãm hại, Tấm đã không còn phải nhờ đến sự giúp đỡ của ông Bụt nữa mà đã tự đứng lên đấu tranh chống lại sự hãm hại của hai mẹ con Cám mà giành lại hạnh phúc cho bản thân. Hình ảnh ông Bụt đã không còn xuất hiện nữa mà người ta chỉ thấy một cô Tấm tự hoá thân hết lần này đến lần khác để tự tranh đấu cho mình mà thôi. Trải qua bao gian truân, cuối cùng Tấm đã đi đến được những ngày tháng hạnh phúc mãi mãi trong cuộc đời. Dẫu biết chỉ là một nhân vật trong câu chuyện cổ tích nhưng em vẫn dành ra nhiều tình cảm và ngưỡng mộ đối với cô Tấm xinh đẹp, nết na nhưng cuộc đời phải trải qua nhiều chông gai, bão táp ấy.
Đề bài: Phân tích vẻ đẹp của nhân vật Pê-nê-lốp trong "Uy-lít-xơ trở về" Phân tích vẻ đẹp của nhân vật Pê-nê-lốp năm 2021 môn Ngữ văn lớp 10 gồm dàn ý, 3 bài phân tích mẫu và sơ đồ tư duy phân tích giúp học sinh lớp 10 có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn. Phân tích vẻ đẹp của nhân vật Pê-nê-lốp năm 2021 - bài văn mẫu 1 Hạnh phúc chỉ thực sự bền vững khi trải qua thử thách. Nàng Pê-nê-lốp trong sử thi Ô-đi-xê nổi tiếng của Hi Lạp cũng vậy. Sau hai mươi năm đằng đẵng chờ chồng, chịu sự nhòm ngó, ép buộc thường trực của 108 kẻ quyền quý cầu hôn, nàng đã tìm thấy hạnh phúc của ngày sum họp. Hình ảnh Pê-nê-lốp chính là biểu tượng của vẻ đẹp phụ nữ Hi Lạp - kiên trinh, thánh thiện, trí tuệ. Hai mươi năm không gặp, hai mươi năm xa cách chờ chồng. Thời gian là liều thuốc nhiệm màu thử thách lòng chung thuỷ của đàn bà và thời gian cũng là nền tảng cho cái đẹp hiện hình. Người phụ nữ Pê-nê-lốp qua thời gian đã làm cho hàng triệu trái tim người đọc mến phục và trân trọng. Trước hết, vẻ đẹp của Pê-nê-lốp hiện lên qua thái độ trân trọng trong cách ứng xử khi trước mặt là người tự nhận là người chồng yêu dấu trong bộ dạng một kẻ hành khất. Người hằng được nàng cho phép ở lại lâu đài để kể cho nàng nghe về hai mươi năm chinh chiến và trôi dạt lênh đênh của chồng. Nàng phải kìm nén tình cảm riêng tư cho lí trí vạch đường chỉ lối. Có những lúc tâm trạng nàng nhiều sự phân vân chọn lựa đầy mâu thuẫn. Khi nghe nhũ mẫu Ơ-ri-clê lên gác báo tin chồng đã trở về nàng "mừng rỡ cuống cuồng nhảy ra khỏi giường ôm chầm lấy bà lão nước mắt chan hoà". Đấy là biểu thị của lòng chung thuỷ, niềm hạnh phúc tột độ được đền bù xứng đáng. Biết bao ngày nàng ngồi dệt tấm thảm để đêm đêm lại tháo ra nhằm trì hoãn sự thúc bách của bọn cầu hôn? Biết bao nhớ mong và yêu thương dành hết cho chồng? Giờ đây nghe nhũ mẫu báo tin Uy-lit-xơ đã trở về nàng không mừng sao được? Nhưng rồi Pê-nê-lốp có một thái độ hoàn toàn khác - thận trọng. Tại sao lại có sự thay đổi đột ngột như vậy? Chúng ta không nên trách cứ nàng đa nghi vì nàng đã hứng chịu biết bao cay đắng khi xa chồng, trong lúc 108 kẻ quấy nhiễu cầu hôn bắt nàng phải tái giá. Nàng đã cương quyết bác bỏ tin của nhũ mẫu và cho rằng người giết chết 108 kẻ cầu hôn giải cứu cho nàng không phải là Uy-lít-xơ mà là một vị thần bất bình vì sự láo xược bất kham và những hành động nhơ nhuốc của bọn kia. Bởi nàng vẫn đau khổ cho rằng "chàng đã hết hy vọng trở lại đất A-Cai, chính chàng cũng đã chết rồi". Tâm trạng Pê-nê-lốp phân vân nhưng rất quả quyết. Nàng đã trấn an nhũ mẫu cũng là để trấn an mình. Tâm trạng nàng trước lúc gặp Uy-lít-xơ "rất đỗi phân vân", điều đó được thể hiện trong dáng điệu, cử chỉ, trong sự lúng túng tìm cách ứng xử. Nàng không biết "nên đứng xa nên chạy gần ôm lấy đầu, cầm lấy tay người mà hôn". Pê-nê-lốp ngồi đối diện với chồng chưa kịp nói điều gì thì Tê-lê-mác con trai nàng đã lên tiếng trách mẹ gay gắt: "Mẹ ơi! Mẹ thật tàn nhẫn và lòng mẹ độc ác quá chừng... không, không một người đàn bà nào sắt đá đến mức chồng đi biền biệt suốt hai mươi năm... bây giờ mới về xứ sở mà lại ngồi cách xa chồng đến vậy?". Tê-lê-mác trách vì chỉ nhìn vào biểu hiện bên ngoài, vì sự nông nổi, chưa từng trải của con trẻ. Trong tình huống này, lời trách giận dữ, phũ phàng của đứa con rất dễ làm Pê-nê-lốp rối trí. Nhưng nàng vẫn rất tỉnh táo, thận trọng không muốn có một sai sót gì. Hai mươi năm xa cách nhớ mong ai chẳng cuồng vui ngày gặp lại, nhưng đứng trước Uy-lít-xơ, Pê-nê-lốp đã kìm nén cảm xúc riêng tư, thông minh nghĩ ra cách xác minh sự thật. Sự thận trọng của nàng không thừa, nó rất phù hợp với hoàn cảnh. Càng chứng tỏ lòng chung thuỷ cao độ của nàng. Bởi lòng chung thuỷ ấy mang phẩm chất kiên trinh đầy trí tuệ. Vẻ đẹp người phụ nữ Pê-nê-lốp còn hiện lên qua tư thế ung dung của một chủ nhà tiếp một vị khách lạ một vị khách đặc biệt vì ông ta đã đánh đuổi được 108 kẻ cầu hôn. Sự ung dung ấy cho thấy nàng là con người bản lĩnh, có học vấn, cao sang, quyền quý. Nàng làm chủ được tình thế, làm chủ bản thân, không thất lễ với khách, cũng không làm mất lòng kẻ ở người ăn. Nhưng nếu chỉ dừng lại trong thái độ cư xử, trong tư thế ung dung bình tĩnh thì chưa thấy được sự thông minh sắc xảo của người phụ nữ này. Qua lời đối thoại trực tiếp với con trai nàng đã kín đáo đem ra phép thử "bí mật của chiếc giường". Chỉ nàng và chồng biết. Pê-nê-lốp sai nhũ mẫu khiêng chiếc giường kiên cố ra khỏi phòng. Đây không phải là mục đích cần đến của nàng mà là sự thử thách. Người tự nhận là chồng nàng, chắc chắn sẽ lộ diện. Uy-lít-xơ giật mình chột dạ, vì chiếc giường không thể xê dịch được. Chàng liền cất tiếng và miêu tả chi tiết, tỉ mỉ chiếc giường. Đó là chiếc giường làm ra từ một gốc cây ô liu. Qua cách miêu tả tỉ mỉ, Uy-lít-xơ cũng muốn nhắc lại tình yêu, tình vợ chồng son sắc cách đây hai mươi năm. Miêu tả cái giường bí mật ấy, chàng đã giải mã dấu hiệu riêng do Pê-nê-lốp cài đặt. Khi đã gạt bỏ được mọi nghi ngờ, nhận ra chồng, Pê-nê-lốp mới thể hiện tình cảm bằng những hành động yêu thương, thể hiện nỗi khát vọng mong chờ. Nàng "bủn rủn cả chân tay...bên chạy lại nước mắt chan hoà, ôm lấy cổ chồng, hôn lên trán chồng". Pê-nê-lốp dùng sự khôn khéo để xác minh sự thật, Uy-lít-xơ bằng trí tuệ nhạy bén đáp ứng được điều thử thách. Đây là sự gặp gỡ của hai tâm hồn, hai trí tuệ. Đoạn trích Uy-lít-xơ trở về không cốt miêu tả khung cảnh sum họp, đoàn tụ thông thường. Cơ bản, nó muốn tạc hình ảnh người phụ nữ Hi Lạp cổ đại chung thuỷ kiên trinh, yêu đương nồng cháy nhưng thông minh trí tuệ, tinh tế, đầy bản lĩnh. Mặt khác cũng thể hiện khát vọng bình yên trong một gia đình hạnh phúc. Ở đó, mặc cho thời gian đằng đặc cách chia vẫn có đợi chờ, hiểu biết lẫn nhau.
|