Thị trường the tín dụng Việt Nam 2022
Số liệu mới nhất từ Ngân hàng Nhà nước cho thấy, với việc triển khai đồng bộ các giải pháp, đến cuối tháng 12/2021, tín dụng đối với nền kinh tế tăng 12,97% so với cuối năm 2020. Tín dụng đối với các ngành kinh tế đều có mức tăng trưởng cao hơn cùng kỳ 2020. Trong đó, lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao tăng trưởng cao hơn nhiều so với tăng trưởng tín dụng chung. Tích cực “bơm” vốn hỗ trợ người dân, doanh nghiệp Theo Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Đào Minh Tú, năm 2021, Ngân hàng Nhà nước đã điều hành đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ để điều tiết thanh khoản phù hợp. Thị trường tiền tệ ổn định; lãi suất liên ngân hàng duy trì ở mức thấp, hỗ trợ tổ chức tín dụng giảm chi phí vốn để có điều kiện tiếp tục cắt giảm lãi suất cho vay. Đáng chú ý, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục thực hiện các giải pháp nhằm kiểm soát quy mô tín dụng, gắn với nâng cao chất lượng tín dụng. Đồng thời, chỉ đạo các tổ chức tín dụng tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, tập trung tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ; kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như: bất động sản, chứng khoán, các dự án BOT, BT giao thông; tăng cường quản lý rủi ro đối với cho vay phục vụ nhu cầu đời sống, tín dụng tiêu dùng; tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng. “Năm 2021, với các giải pháp đồng bộ, mặc dù chịu ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch Covid-19 nhưng tín dụng toàn nền kinh tế tăng ngay từ đầu năm và cao hơn so cùng kỳ năm 2020”, Phó Thống đốc Đào Minh Tú nêu rõ. Cụ thể, tính đến ngày 22/12, tín dụng đối với nền kinh tế tăng 12,68% so cuối năm 2020, tăng 14,57% so cùng kỳ năm 2020. Như vậy, chỉ gần một tháng, tăng trưởng tín dụng đã tăng thêm 2,58 điểm %, tương ứng với quy mô tín dụng được “bơm” thêm ra nền kinh tế là hơn 237 nghìn tỷ đồng. Dư nợ tín dụng đối với 23 chương trình tín dụng chính sách của Ngân hàng Chính sách xã hội đến ngày 30/11 đạt 245.199 tỷ đồng, tăng 8,4%, với hơn 6,4 triệu hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác còn dư nợ. Bên cạnh đó, nhằm tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp trong việc tiếp cận tín dụng, đáp ứng nhu cầu hợp pháp của người dân, góp phần hạn chế “tín dụng đen”, ngành ngân hàng đã quyết liệt triển khai nhiều giải pháp như, đẩy mạnh ứng dụng khoa học-công nghệ, phát triển các dịch vụ trực tuyến; mở rộng mạng lưới, đa dạng sản phẩm dịch vụ, giảm lãi suất, đơn giản hóa thủ tục cho vay đáp ứng nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp và mọi tầng lớp dân cư. Đặc biệt, nhiều giải pháp quyết liệt đã được triển khai nhằm hỗ trợ người dân, doanh nghiệp khắc phục khó khăn do dịch Covid-19. Đẩy mạnh việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước đã hai lần sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 01/2020/TT-NHNN quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch Covid-19 cho phù hợp tình hình thực tế. Theo thống kê từ Ngân hàng Nhà nước, đến 20/12, các ngân hàng đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ với giá trị nợ lũy kế từ khi có dịch khoảng 607 nghìn tỷ đồng, hiện có khoảng 775 nghìn khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch được cơ cấu lại nợ, với dư nợ hơn 296 nghìn tỷ đồng; Miễn, giảm, hạ lãi suất cho hơn 1,96 triệu khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch với dư nợ hơn 3,87 triệu tỷ đồng; tổng số tiền lãi lũy kế đến nay các tổ chức tín dụng đã miễn, giảm, hạ cho khách hàng khoảng 34.900 tỷ đồng; Cho vay mới lãi suất thấp hơn so với trước dịch với doanh số lũy kế từ 23/1/2020 đến nay đạt hơn 7,4 triệu tỷ đồng cho khoảng hơn 1,3 triệu khách hàng. Kiểm soát tín dụng vào các lĩnh vực rủi ro Cũng theo Phó Thống đốc Đào Minh Tú, phát huy tinh thần hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế, trong năm 2022, Ngân hàng Nhà nước sẽ điều hành các giải pháp tín dụng nhằm góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế. Chỉ đạo các tổ chức tín dụng tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, kiểm soát và xử lý nợ xấu; hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ; kiểm soát chặt chẽ tín dụng vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro. Tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm hỗ trợ người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng và các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, thiên tai, dịch bệnh. “Nếu có điều kiện, các tổ chức tín dụng tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế bằng cách giảm lãi suất, cộng với các chương trình hỗ trợ của Chính phủ, tạo hiệu ứng chung vừa có hỗ trợ của ngành ngân hàng vừa có gói hỗ trợ phục hồi kinh tế. Đặc biệt, các ngân hàng tập trung dành nguồn vốn cho các lĩnh vực khó khăn, lĩnh vực cần ưu tiên; không tập trung vốn cho các lĩnh vực không ưu tiên. Năm 2022, Ngân hàng Nhà nước sẽ nới thêm tín dụng nhưng sẽ kiểm soát chặt tiền vào kênh chứng khoán, trái phiếu, bất động sản”, Phó Thống đốc Đào Minh Tú nhấn mạnh. Năm 2022, Ngân hàng Nhà nước đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng khoảng 14%, cao hơn mục tiêu tăng trưởng tín dụng của năm 2021 là 12%, có điều chỉnh phù hợp diễn biến, tình hình thực tế. Riêng tín dụng đối với lĩnh vực rủi ro như chứng khoán, bất động sản hay kênh trái phiếu, quan điểm điều hành của Ngân hàng Nhà nước là không tăng thêm mà còn phải kiểm soát chặt chẽ, thậm chí sẽ còn thanh tra,... Theo đó, Ngân hàng Nhà nước sẽ thanh tra những khoản tín dụng vào trái phiếu mà một số tổ chức tín dụng phát hành không bảo đảm an toàn theo tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ ngay trong năm 2022. HỒNG ANH Theo thông tin vừa công bố từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN), mặc dù chịu ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch Covid-19 nhưng tín dụng toàn nền kinh tế tăng ngay từ đầu năm và cao hơn so cùng kỳ năm 2020. Tính đến 22/12/2021, tín dụng đối với nền kinh tế tăng 12,68% so với cuối năm 2020, tăng khoảng 14,57% so với cùng kỳ năm 2020.
Dư nợ tín dụng đối với 23 chương trình tín dụng chính sách của ngân hàng chính sách xã hội đến 30/11/2021 đạt 245.199 tỷ đồng, tăng 8,4% so với năm 2020, với hơn 6,4 triệu hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác còn dư nợ. Về hỗ trợ người dân, doanh nghiệp khắc phục khó khăn do dịch Covid-19, NHNN cho biết, đến 20/12/2021, các tổ chức tín dụng (TCTD) đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ với giá trị nợ lũy kế từ khi có dịch khoảng 607.000 tỷ đồng. Hiện có khoảng 775.000 khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch được cơ cấu lại nợ, với dư nợ trên 296.000 tỷ đồng. Các TCTD cũng miễn, giảm, hạ lãi suất cho trên 1,96 triệu khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch với dư nợ hơn 3,87 triệu tỷ đồng. Tổng số tiền lãi lũy kế đến nay TCTD đã miễn, giảm, hạ cho khách hàng khoảng 34.900 tỷ đồng. Cho vay mới lãi suất thấp hơn so với trước dịch với doanh số lũy kế từ 23/01/2020 đến nay đạt trên 7,4 triệu tỷ đồng cho khoảng trên 1,3 triệu khách hàng. Bên cạnh đó, các TCTD tiếp tục thực hiện các giải pháp về miễn, giảm phí dịch vụ thanh toán hỗ trợ người dân, doanh nghiệp khắc phục khó khăn do dịch Covid-19. Ước tính số lượng giao dịch được miễn phí chiếm khoảng 80%. Dự kiến tổng số tiền phí dịch vụ thanh toán qua hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng và qua hệ thống chuyển mạch bù trừ (hệ thống Napas) đã giảm cho khách hàng từ năm 2020 đến hết năm 2021 khoảng 2.557 tỷ đồng và giảm trên 250 tỷ đồng tiền khai thác dịch vụ thông tin tín dụng trong năm 2021./.
VOV.VN - Huy động vốn của hệ thống ngân hàng tính đến 19/3 chỉ tăng xấp xỉ so với cùng kỳ, trong khi tổng mức huy động vốn trên thị trường chứng khoán ước tính đạt 55.562 tỷ đồng, tăng 42% so với cùng kỳ năm trước. Trong bối cảnh tín dụng năm 2021 có nhiều diễn biến tích cực, năm 2022, dự báo nhu cầu tín dụng tiếp tục tăng trưởng và có thể đạt 15%...
Tín dụng năm 2021 tích cực Sau giai đoạn giãn cách xã hội vì đại dịch Covid-19, đến nay hầu hết các địa phương trên cả nước đã và đang mở cửa các hoạt động sản xuất, kinh doanh trở lại và cùng chuyển sang trạng thái bình thường mới. Nhờ đó, nền kinh tế đã có nhiều tín hiệu khởi sắc từ đầu quý IV/2021. Nhu cầu về nguồn vốn cho các mục đích tiếp tục tăng cao trong quý cuối năm này. Cho đến cuối năm 2021, thanh khoản nguồn tín dụng trong toàn hệ thống ngân hàng vẫn luôn được duy trì dồi dào, mặt bằng lãi suất liên ngân hàng không bị sức ép tăng mà vẫn duy trì ở mức thấp. Lãi suất liên ngân hàng tại thời điểm tuần cuối năm kỳ hạn qua đêm chỉ ở mức 0,63% (giảm 1 điểm cơ bản so với tuần trước) và kỳ hạn 1 tuần là 0,74% (tăng 1 điểm cơ bản). Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết, tính đến cuối tháng 11/2021, tổng dư nợ tín dụng cho nền kinh tế đã đạt 10,18 triệu tỷ đồng, tăng 10,7% so với cuối năm 2020, trong đó các lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp ứng dụng công thông tin... tăng trưởng cao hơn nhiều so với tỷ trọng tăng trưởng tín dụng chung của toàn nền kinh tế. Cuối tháng 10/2021, con số tăng tổng dư nợ mới chỉ là 8,7%, tức là chỉ trong một tháng giữa quý IV/2021, tổng dư nợ đã tăng thêm 1,48 điểm phần trăm. Ngoài những nguyên nhân về cơ chế, thì theo quy luật của thị trường tín dụng, vào những tháng cuối năm tốc độ tăng tín dụng luôn luôn vượt trội so với các tháng trước trong năm. Nắm chắc quy luật trên, NHNN đã mở ra nhiều cơ chế, chính sách cấp thiết để thị trường tín dụng góp phần kích cầu, thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh, phục hồi kinh tế do tác động của đại dịch Covid-19. Các cơ chế, chính sách của NHNN đã kịp thời chỉ đạo các nội dung xem xét chấp thuận nâng hạn mức tăng trưởng tín dụng năm 2021 từ 1-6 điểm phần trăm thích ứng cho các ngân hàng thương mại (NHTM) sau khi xét chất lượng tín dụng, thị trường đầu ra và chỉ số an toàn vốn theo tiêu chuẩn Basel của từng NHTM cụ thể. Theo đó, hạn mức tăng trưởng tín dụng cho một số NHTM được NHNN cho phép nâng lên mức trần mới là: VIB 20%; MSB 25%; TPBank 5%; Techcombank 25%; VPBank 17,1%; LietVietPostBank 20%; HDBank 20%; OCB 20%. Riêng nhóm các NHTM có vốn sở hữu lớn của Nhà nước, gồm VietinBank là 11,5%; Vietcombank 14% và BIDV là 11,5%.
Thị trường tín dụng tăng trưởng tốt là tín hiệu cho thấy nền kinh tế về cuối năm đang phục hồi ngay trong bối cảnh đại dịch còn phức tạp, góp phần cải thiện tốt hơn các số liệu vĩ mô vào những tháng cuối năm 2021. Góp phần cho dư nợ tín dụng tăng mạnh là gói hỗ trợ lãi suất tại TP.HCM được đẩy mạnh từ tháng 10/2021 để hỗ trợ nền kinh tế vừa chống dịch, vừa phát triển, mở ra một kinh nghiệm rất đáng giá cho cả nền kinh tế.Ngoài giải pháp về nới trần tăng trưởng tín dụng, NHNN đã có nhiều chính sách về gia hạn món dư nợ cũ, giảm lãi suất chung và giảm lãi suất riêng, gồm cả lãi suất hiện hữu và lãi suất cho món vay mới cho các khách hàng gặp khó khăn tình thế nhưng có khả năng trả nợ... Kết quả ban đầu là “lũy kế từ ngày 23/1/2020 đến cuối tháng 10/2021, tổng số tiền lãi mà các NHTM đã miễn, đã giảm cho khách hàng là khoảng 31.400 tỷ đồng”, bà Bùi Thúy Hằng, Phó vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ, NHNN cho biết... Theo NHNN, cơ quan này đang điều hành theo hướng mở rộng tín dụng cho nền kinh tế. NHNN yêu cầu và kiểm soát việc chấp hành của NHTM về việc các tổ chức này phải tập trung vốn cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên. Cùng với kiểm soát chặt chẽ lượng tín dụng đổ vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, NHNN tiếp tục đánh giá thực trạng khó khăn của nền kinh tế, các ngành nghề, loại hình doanh nghiệp..., để chỉ đạo các NHTM có chính sách ưu tiên, hỗ trợ và tập trung tín dụng nhằm góp phần khôi phục kinh tế. Riêng khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, các NHTM đã tiến hành cho vay mới với lãi suất thấp hơn so với trước dịch, với doanh số lũy kế từ ngày 23/1/2020 đến cuối tháng 11/2021 đã đạt trên 7,1 triệu tỷ đồng cho hơn 1,2 triệu khách hàng... Năm 2022, dự báo nhu cầu tín dụng tăng 15% Nhiều luồng thông tin chính thống cho thấy, nền kinh tế nước ta nói chung và thị trường tín dụng nói riêng đã và đang vận động theo đúng xu hướng chung của thế giới và cũng là quan điểm nhất quán của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về một cơ chế phát triển kinh tế trong trạng thái bình thường mới. Theo đó, Nhà nước, các ngành và người dân đã và cần phải tìm mọi giải pháp, mọi hình thức tốt nhất có thể được để phát triển kinh tế ngay trong môi trường chưa hết dịch theo nguyên tắc “đánh dịch” để sản xuất kinh doanh, chứ không “chạy dịch” để phải đóng cửa nhà máy, công xưởng, dự án hay cửa hàng, cửa hiệu. Thị trường tín dụng do đó cũng đã và cần phải phát triển sáng tạo, thích hợp với trạng thái kinh tế này. Thậm chí thị trường vốn phải đóng vai trò xung kích cùng vào cuộc với khách hàng vay để kích cầu và chia sẻ rủi ro với nền kinh tế...
Trong năm 2022, chúng ta có thể tin tưởng và dự báo nhu cầu tín dụng sẽ tiếp tục tăng trưởng ở mức cao hơn 13%, có thể đạt 15% nhờ đà phục hồi của nền kinh tế cùng quá trình kiểm soát và cơ chế chống dịch bệnh kết hợp với sản xuất kinh doanh hiệu quả. Ngoài cơ chế “sống chung với lũ”, thì các chiến dịch “đánh dịch” đã và đang mở rộng, có hiệu quả. Tỷ lệ tiêm phòng Covid-19 đang phủ sóng ngày càng cao, tỷ lệ cao nhất đang ưu tiên cho những “vùng rốn” mà dịch từng hoành hành như các thanh phố lớn và các khu công nghiệp lớn. Tỷ lệ này sẽ và cần phải hoàn thiện hơn, toàn diện hơn ngay trong quí I/2022. Cùng với đó, gói hỗ trợ từ Chương trình phục hồi kinh tế và phát triển kinh tế của Chính phủ để giảm giá tín dụng và hỗ trợ cho vay giá rẻ hoặc không lãi suất cho đối tượng ưu tiên của nền kinh tế có thể sẽ tăng lên đến 800.000 tỷ đồng trong 2-3 năm tới, sẽ góp phần thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng và sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. Về phía NHNN, cần nhất quán quan điểm mở rộng tín dụng kết hợp với tiếp tục hoãn lộ trình siết tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn, đồng thời kiểm soát chặt chẽ các dòng vốn đổ vào các dự án, các lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro, đặc biệt cần siết chặt tín dụng đổ vào các lĩnh vực cho vay chứng khoán, bất động sản – các lĩnh vực không trực tiếp kích thích sản xuất, kinh doanh lưu chuyển hàng hóa. Vì vậy, hạt nhân của chính sách tiền tệ của NHNN là phải đảm bảo mục tiêu kiểm soát lạm phát, bảo vệ giá trị sức mua của đồng tiền đo bằng giá vàng và đo bằng tỷ giá với các đồng tiền mạnh nhằm góp phần giữ vai trò chủ chốt trong việc ổn định vĩ mô của nền kinh tế - xã hội. Các cơ chế nói trên nếu được thể chế hóa chặt chẽ hơn sẽ tạo cơ sở pháp lý cho hệ thống ngân hàng có thêm nhiều dư địa để họ thực sự là lực lượng chủ đạo kích cầu tăng trưởng trong thời gian tới nhằm hỗ trợ việc mở cửa mạnh mẽ trở lại các lĩnh vực của nền kinh tế…/. TS. Nguyễn Đại Lai-Chuyên gia tài chính, ngân hàng |