Thu nhập của ngân hàng thương mại là gì

Hiệu quả kinh doanh [Business Efficiency] là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt được các mục tiêu kinh doanh xác định. Chỉ các doanh nghiệp kinh doanh mới nhằm vào mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận và vì thế mới cần đánh giá hiệu quả kinh doanh.

Đối với các ngân hàng thương mại, việc tiếp cận và đo lường hiệu quả kinh doanh ngân hàng đã được thực hiện đa dạng theo các cách khác nhau. Ở cách tiếp cận truyền thống, hiệu quả kinh doanh ngân hàng được đo lường thông qua các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời; các chỉ tiêu phản ánh thu nhập, chi phí; và các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng [Nguyễn Việt Hùng, 2012].

1. Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời

Bao gồm các chỉ tiêu tính toán trên báo cáo tài chính phản ánhtính hiệu quả của một đồng vốn kinh doanh. Các chỉ tiêu này bao gồm: tỷ lệ thu nhập lãi cận biên [NIM], thu ngoài lãi biên ròng [NOM], hệ số thu nhập trên cổ phiếu [EPS], thu nhập ròng trên tổng tài sản [ROA] và thu nhập ròng trên tổng vốn chủ sở hữu [ROE].

    Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên đo lường mức chênh lệch giữa thu từ lãi và chi phí trả lãi mà ngân hàng có thể đạt được thông qua hoạt động kiểm soát chặt chẽ tài sản sinh lời và theo đuổi các nguồn vốn có chi phí thấp nhất. Một tỷ lệ NIM cao là dấu hiệu quan trọng cho thấy ngân hàng đang thành công trong việc quản lý tài sản và nợ. Ngược lại, NIM thấp sẽ cho thấy ngân hàng đang gặp khó khăn trong việc tạo lợi nhuận. Trong khi đó, tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên [NOM] đo lường mức chênh lệch giữa nguồn thu ngoài, chủ yếu là nguồn thu phí từ các dịch vụ với các chi phí ngoài lãi mà ngân hàng phải chịu như tiền lương, chi phí sửa chữa, bảo hành và chi phí tổn thất tín dụng. Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên được tính toán theo công thức sau:

Hệ số thu nhập trên cổ phiếu [EPS] phản ánh phần lợi nhuận mà ngân hàng phân bổ cho mỗi cổ phần thông thường đang lưu hành trên thị trường. EPS được thể hiện như một chỉ số thể hiện khả năng kiếm lợi nhuận của ngân hàng, được tính toán bằng công thức:

Thu nhập ròng trên tổng tài sản [ROA] đo lường khả năng của ban quản lý sử dụng các nguồn lực nói chung và nguồn lực tài chính của ngân hàng nói riêng để tạo ra lợi nhuận. ROA được tính theo công thức sau:

Khác với ROA, ROE là một chỉ tiêu đo lường tỷ lệ thu nhập cho các cổ đông của ngân hàng, thể hiện thu nhập mà cổ đông nhận được từ việc đầu tư vào ngân hàng. Nếu một ngân hàng có ROE tương đối thấp so với những ngân hàng khác sẽ làm giảm đi khả năng thu hút vốn mới cần thiết cho sự mở rộng và duy trì vị thế cạnh tranh của ngân hàng đó trên thị trường. ROE được tính toán bằng công thức.

2. Nhóm chỉ tiêu phản ánh thu nhập, chi phí

Bao gồm các chỉ tiêu:

+ Tổng chi phí hoạt động/tổng thu từ hoạt động: là một thước đo phản ánh mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra hay nói cách khác nó phản ảnh khả năng bù đắp chi phí trong hoạt động của ngân hàng.

+ Năng suất lao động [Thu nhập hoạt động/Số nhân viên làm việc đầy đủ thời gian]: phản ánh hiệu quả sử dụng lao động của ngân hàng.

+ Tổng thu hoạt động/tổng tài sản: phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản. Nếu hệ số này lớn phản ánh ngân hàng đã phân bổ tài sản [danh mục đầu tư] một cách hợp lý nhằm nâng cao lợi nhuận của ngân hàng.

3. Nhóm chỉ tiêu phản ánh rủi ro tài chính

Trong một nền kinh tế có nhiều biến động như hiện nay, các nhà quản trị ngân hàng tập trung nhiều hơn vào công việc kiểm soát và đo lường rủi ro trong hoạt động của ngân hàng, đó là: rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro phá sản và rủi ro thu nhập.

+ Tỷ lệ nợ xấu/tổng cho vay: chỉ tiêu phản ánh chất lượng của tín dụng, chỉ số này càng nhỏ thì chất lượng tín dụng càng cao.

+ Tỷ lệ cho vay/tổng tài sản: phản ánh phần tài sản có được phân bổ vào những tài sản có tính thanh khoản kém. Tỷ lệ này cho thấy việc tăng cường sử dụng nguồn vốn vay rất có thể gây ra rủi ro thanh khoản nếu như nhu cầu rút tiền của công chúng tăng và chất lượng của các khoản cho vay giảm.

+ Tỷ lệ giữa tài sản nhạy cảm với lãi suất và nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất: khi quy mô tài sản nhạy cảm với lãi suất vượt quá nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất trong một thời kỳ nhất định, một ngân hàng có thể sẽ rơi vào tình trạng bất lợi và thua lỗ có thể xảy ra nếu lãi suất giảm. Ngược lại, khi quy mô vốn nhạy cảm với lãi suất vượt quá tài sản nhạy cảm với lãi suất, thua lỗ chắc chắn sẽ xảy ra nếu lãi suất tăng.

+ Tỷ lệ đòn bẩy tài chính [Tổng tài sản/tổng nguồn vốn chủ sở hữu]: chỉ tiêu này phản ánh bao nhiêu đồng giá trị tài sản được tạo ra trên cơ sở 1 đồng vốn chủ sở hữu và ngân hàng phải dựa vào nguồn vay nợ là bao nhiêu.

Phương pháp tiếp cận truyền thống để đánh giá hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại có ưu điểm đơn giản, dễ hiểu và dễ sử dụng. Hầu hết các chỉ số trong phương pháp này đều được tính toán từ các thông tin trên hệ thống báo tài chính doanh nghiệp. Tuy nhiên, khó có thể đưa ra một bức tranh tổng thể về hiệu quả kinh doanh ngân hàng khi kết hợp nhiều mặt, nhiều khía cạnh hoạt động của ngân hàng. Khi xem xét đồng thời hoặc tổng hợp các kết quả phân tích từ các tỷ số khác nhau có thể đưa đến nguy cơ nhầm lẫn trong việc đánh giá hoạt động của các ngân hàng vì các chỉ số này chỉ là những chỉ số phân tích đơn.

Tài liệu tham khảo

  1. Nguyễn Thu Nga [2017]. Phân tích mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng với hiệu quả kinh doanh của các NHTMCP Việt Nam. Luận án tiến sĩ kinh tế. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
  2. Nguyễn Việt Hùng [2012] , Tiếp cận phân tích định lượng: Hiệu quả hoạt động của các ngân hàng ở Việt Nam, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân.
  3. Giáo trình Quản trị kinh doanh, NXB Đại học Kinh tế quốc dân.
  4. What is Business Efficiency and Why it is a Matter of Life and Death for your Company.

Ngân hàng thương mại đã hình thành tồn tại và phát triển hàng trăm năm gắn liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển hệ thống Ngân hàng Thương mại [NHTM] đã có tác động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá, ngược lại kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất là nền kinh tế thị trường thì NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính không thể thiếu được. Thông qua hoạt động tín dụng thì ngân hàng thương mại tạo lợi ích cho người gửi tiền, người vay tiền và cho cả ngân hàng thông qua chênh lệch lãi suất mà thu được lợi nhuận cho ngân hàng.

Mục lục

  • 1 Khái niệm ngân hàng thương mại
  • 2 Chức năng của ngân hàng thương mại
    • 2.1 Chức năng trung gian tín dụng
    • 2.2 Chức năng trung gian thanh toán
    • 2.3 Chức năng tạo tiền
  • 3 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của NHTM
    • 3.1 Sự gia tăng nhanh chóng trong danh mục sản phẩm dịch vụ
    • 3.2 Sự gia tăng cạnh tranh
    • 3.3 Sự gia tăng chi phí vốn
    • 3.4 Sự gia tăng các nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất
    • 3.5 Cách mạng trong công nghệ ngân hàng
  • 4 Chú thích

Khái niệm ngân hàng thương mạiSửa đổi

Cho đến thời điểm hiện nay có rất nhiều khái niệm về NHTM:

  • Ở Mỹ: Ngân hàng thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
  • Đạo luật ngân hàng của Pháp [1941] cũng đã định nghĩa: "Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính".
  • Ở Việt Nam, Định nghĩa Ngân hàng thương mại: là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật [Nghị định số 59/2009/NĐ-CP của chính phủ về tổ chức và hoạt động NHTM]

Từ những nhận định trên có thể thấy NHTM là một trong những định chế tài chính mà đặc trưng là cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính với nghiệp vụ cơ bản là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngoài ra, NHTM còn cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội.

Chức năng của ngân hàng thương mạiSửa đổi

Chức năng trung gian tín dụngSửa đổi

Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại. Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, NHTM đóng vai trò là cầu nối giữa người thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Với chức năng này, ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò nhận tiền gửi, vừa đóng vai trò là người cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi tiền và người đi vay... Cho vay luôn là hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng thương mại, nó mang đến lợi nhuận lớn nhất cho ngân hàng thương mại.

Chức năng trung gian thanh toánSửa đổi

Ở đây NHTM đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ.

Các NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng… Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người phải thanh toán dù ở gần hay xa mà họ có thể sử dụng một phương thức nào đó để thực hiện các khoản thanh toán. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán an toàn. Chức năng này vô hình trung đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế.

Chức năng tạo tiềnSửa đổi

Là chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản chất của NHTM. Mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận chẳng hạn như yêu cầu chính cho sự tồn tại và phát triển của mình, các NHTM với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc thù của mình đã vô hình trung thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế.

Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của NHTM là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng này, hệ thống NHTM đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Ngân hàng thương mại tạo tiền phụ thuộc vào tỉ lệ dự trữ bắt buộc của ngân hàng trung ương đã áp dụng đối với NHTM. Do vậy ngân hàng trung ương có thể tăng tỉ lệ này khi lượng cung tiền vào nền kinh tế lớn.

Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của NHTMSửa đổi

Sự gia tăng nhanh chóng trong danh mục sản phẩm dịch vụSửa đổi

Ngày nay, các ngân hàng đang mở rộng danh mục sản phẩm dịch vụ tài chính mà họ cung cấp cho khách hàng. Quá trình mở rộng danh mục sản phẩm dịch vụ đã tăng tốc trong những năm gần đây dưới áp lực cạnh tranh gia tăng từ các tổ chức tài chính khác, từ sự hiểu biết và đòi hỏi cao hơn của khách hàng, và từ sự thay đổi công nghệ.

Sự gia tăng cạnh tranhSửa đổi

Sự cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ tài chính đang ngày càng trở nên quyết liệt khi ngân hàng và các đối thủ cạnh tranh mở rộng danh mục sản phẩm dịch vụ. Các ngân hàng địa phương cung cấp tín dụng, kế hoạch tiết kiệm, kế hoạch hưu trí, dịch vụ tư vấn tài chính cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng. Đây là những dịch vụ đang phải đối mặt với sự cạnh tranh trực tiếp từ các ngân hàng khác, các hiệp hội tín dụng, ngân hàng đầu tư Merrill Lynch, các công ty tài chính như GE Capital và các tổ chức bảo hiểm như Prudential. Áp lực cạnh tranh đóng vai trò như một lực đẩy tạo ra sự phát triển dịch vụ cho tương lai.

Sự gia tăng chi phí vốnSửa đổi

Sự nới lỏng luật lệ kết hợp với sự gia tăng cạnh tranh làm tăng chi phí trung bình thực tế của tài khoản tiền gửi – nguồn vốn cơ bản của ngân hàng. Với sự nới lỏng các luật lệ, ngân hàng buộc phải trả lãi do thị trường cạnh tranh quyết định cho phần lớn tiền gửi. Đồng thời, Chính phủ yêu cầu các ngân hàng phải sử dụng vốn sở hữu nhiều hơn – một nguồn vốn đắt đỏ - để tài trợ cho các tài sản của mình. Điều đó buộc họ phải tìm cách cắt giảm các chi phí hoạt động khác như giảm số nhân công, thay thế các thiết bị lỗi thời bằng hệ thống xử lý điện tử hiện đại. Các ngân hàng cũng buộc phải tìm các nguồn vốn mới như chứng khoán hóa một số tài sản, theo đó một số khoản cho vay của ngân hàng được tập hợp lại và đưa ra khỏi bảng cân đối kế toán; các chứng khoán được đảm bảo bằng các món vay được bán trên thị trường mở nhằm huy động vốn mới một cách rẻ hơn và đáng tin cậy hơn. Hoạt động này cũng có thể tạo ra một khoản thu phí không nhỏ cho ngân hàng, lớn hơn so với các nguồn vốn truyền thống [như tiền gửi].

Sự gia tăng các nguồn vốn nhạy cảm với lãi suấtSửa đổi

Các quy định của Chính phủ đối với công nghiệp ngân hàng tạo cho khách hàng khả năng nhận được mức thu nhập cao hơn từ tiền gửi, nhưng chỉ có công chúng mới làm cho các cơ hội đó trở thành hiện thực. Và công chúng đã làm việc đó. Hàng tỷ USD trước đây được gửi trong các tài khoản tiết kiệm thu nhập thấp và các tài khoản giao dịch không sinh lợi kiểu cũ đã được chuyển sang các tài khoản có mức thu nhập cao hơn, những tài khoản có tỷ lệ thu nhập thay đổi theo điều kiện thị trường. Ngân hàng đã phát hiện ra rằng họ đang phải đối mặt với những khách hàng có giáo dục hơn, nhạy cảm với lãi suất hơn. Các khoản tiền gửi "trung thành" của họ có thể dễ tăng cường khả năng cạnh tranh trên phương diện thu nhập trả cho công chúng gửi tiền và nhạy cảm hơn với ý thích thay đổi của xã hội về vấn đề phân phối các khoản tiết kiệm.

Cách mạng trong công nghệ ngân hàngSửa đổi

Đối mặt với chi phí hoạt động cao hơn, từ nhiều năm gần đây các ngân hàng đã và đang chuyển sang sử dụng hệ thống hoạt động tự động và điện tử thay thế cho hệ thống dựa trên lao động thủ công, đặc biệt là trong công việc nhận tiền gửi, thanh toán bù trừ và cấp tín dụng. Những ví dụ nổi bật nhất bao gồm các máy rút tiền tự động ATM, cho phép khách hàng truy nhập tài khoản tiền gửi của họ 24/24 giờ; Máy thanh toán tiền POS được lắp đặt ở các bách hóa và trung tâm bán hàng thay thế cho các phương tiện thanh toán hàng hóa dịch vụ bằng giấy; và hệ thống máy vi tính hiện đại xử lý hàng ngàn giao dịch một cách nhanh chóng trên toàn thế giới.

Chú thíchSửa đổi

Video liên quan

Chủ Đề