Thương hồ là gì

Ở Đồng bằng sông Cửu Long, có một tập quán làm ăn hình thành từ thời khẩn hoang. Vào khoảng tháng 9 âm lịch, nông dân từ miệt Tiền Giang, hay còn gọi là miệt vườn [Cần Thơ, Cửu Long, Bến Tre, Tiền Giang, Long Xuyên...] rảnh rỗi việc mùa màng, rủ nhau xuống xuồng ghe xuôi theo con nước lũ về miệt Hậu Giang [Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Rạch Giá...] để bán hàng bông và gặt lúa mướn, sau đó thì trở về quê khi tết nhứt gần kề. Người Hậu Giang gọi họ là bà con miệt vườn, nhưng những người sính dùng chữ nghĩa thì đặt tên cho những cuộc đời lênh đênh sông nước ấy một cái tên mỹ miều: khách thương hồ!

            Quê tôi nằm dọc theo con sông Bạc Liêu, vì thế mà thuở nhỏ, năm nào tôi cũng được tắm mình trong cái không khí rộn ràng của mùa gặt mướn. Thời điểm bắt đầu là khi gió chướng về. Đó là một ngọn gió rất lạ. Nó tiềm ẩn những huyền diệu của thiên nhiên. Đầu tiên là những ngọn gió giao mùa cứ vần vũ, quật qua quật lại, sau đó là gió chướng sòng xuất hiện. Loại gió này vô cùng phóng khoáng, nó mang tất cả những mát mẻ của đất trời thổi vào đồng ruộng, xóm làng và tràn ngập lòng ta. Nó làm không gian dậy lên cái hương lúa mới nồng đượm. Chính vì thế mà lòng ta rạo rực mong chờ một mùa no ấm, mong một cái Tết có áo mới, pháo nổ gần kề… Bỗng nghe dưới bến sông có ai hò: “Bớ ghe sau chèo mau tôi đợi/ Khúc sông này bờ bụi khó qua”… Mới hay, đã bắt đầu mùa bà con miệt vườn về miệt Hậu Giang làm ăn.

             Trên dòng sông Bạc Liêu, trăng tháng mười bàng bạc, từng đoàn ghe, xuồng nối đuôi nhau kéo về. Tiếng quẫy nước, tiếng khua chèo, tiếng hát hò hòa lẫn với tiếng những con vạc ăn đêm đánh thức những dòng sông lạnh vắng. Tiếng hò của ai đó cất lên: “Đạo nào vui cho bằng đạo đi buôn/ Xuống bể lên nguồn, gạo chợ nước sông”… Khách thương hồ cứ theo dòng nươc lũ của sông Tiền qua sông Hậu, rồi xuống Ngã Năm, Ngã Bảy để vào Bảy Xàu, Cổ Cò mà về Bạc Liêu, Cà Mau… Những vùng đất miệt Hậu Giang nổi tiếng phèn chua nước mặn với câu ca: “Chèo ghe sợ sấu cắn chưn/ Xuống bưng sợ đỉa, lên rừng sợ ma” với những xóm nhà thưa thớt, đìu hiu, bỗng trở nên đông vui, nhộn nhịp. Tại các vàm sông như Ngã Năm, Ngã Bảy - nơi đầu mối thủy lộ tỏa ra nhiều vùng, các hàng quán bán bánh dừa, bánh tét, cháo gà… mở ra. Khách thương hồ mua rồi bán lại một ít trái cây miệt vườn. Riết rồi sinh hoạt mua bán ngày một sầm uất, trở thành những chợ nổi trên sông đặc biệt ở miền Hậu Giang.

            Còn tại các xóm làng của Bạc Liêu, Cà Mau, như xóm tôi chẳng hạn, ghe, xuồng đủ loại ken dày ở các bến sông, các đầu kinh thủy lợi. Xuồng, ghe đều có mui, được chằm từ lá dừa nước. Khi tìm được bến đậu, người ta khiêng mui ghe lên bờ để làm loại nhà di động trú mưa nắng. Một tốp ghe thì năm, ba nhân công trai tráng; tốp khác lại là những cặp vợ chồng với con nhỏ nheo nhóc. Họ còn nuôi gà, heo trên những chiếc ghe nhỏ xíu. Sáng sớm, ở đầu các vàm kinh đã thấy ánh lửa bập bùng, rồi khói đốt rơm dâng cao. Đó là những người gặt lúa mướn nấu cơm ăn để đi làm sớm. Họ là những thợ gặt chuyên nghiệp, làm năng suất gấp đôi người địa phương, trời đứng bóng đã thấy họ gặt xong một công lúa. Chính kỹ thuật cắt lúa thấp bằng lưỡi hái trên ruộng lúa ngắn ngày [trái với kỹ thuật thu hoạch lúa của người địa phương] đã được người miệt vườn du nhập vào miền Hậu Giang.

Trên sông, khách thương hồ cất lên giọng hò: “Ngồi buồn vọc nước giỡn trăng/ Nước xao, trăng dợn biết rằng về đâu”. Hát thế là hát cho kẻ mới đi gặt, đi buôn xuống miệt Hậu Giang lần đầu hoặc tình cảnh của dân thương hồ ngày nay, chứ ngày xưa, đa phần khách thương hồ đều có bến đậu. Ở làng tôi, vào vụ gặt là gần như 100% gia đình trong xóm đều chứa 5 - 10 người miệt vườn đến trú ngụ. Là người quen cả thôi. Năm ngoái, họ tạm biệt về vườn ăn Tết, thì năm nay, họ lại xuống làm ăn. Nhà tôi là bến đậu của cậu Út, người miệt Cửu Long. Ba tôi kể rằng, đời ông già cậu Út cũng đã ở nhà ông nội tôi để đi gặt rồi, thế nên, tình cảm gắn bó như bà con ruột rà. Cậu Út xuống với mợ Út cùng hai đứa con: thằng Tâm và con Út Mén.

Họ đến thì gia đình tôi mừng. Lũ trẻ sẽ được ăn trái cây miệt vườn và có bạn chơi. Còn người lớn thì lâu ngày gặp lại. Ghe cậu Út năm nào cũng chở một số trái cây gồm mít, xoài, mận... để vừa có cái tặng bà con miền Hậu Giang, vừa bán để kiếm ít tiền lời làm sở phí đi đường. Cũng chẳng biết vì sao ba má tôi lại quý họ như thế? Má tôi bán dùm hàng cho mợ Út, ba tôi thì “dằn” công gặt có giá cao cho cậu Út. Sau một công gặt, còn thời gian rảnh, ba tôi dẫn cậu Út đi bắt cá cạn, hay xin một ít cá lóc, cá rô loại nhỏ của láng giềng tát đìa để cậu Út xẻ khô, làm mắm mang về quê vào cuối vụ gặt. Lúc đó, xóm tôi cứ nhộn nhịp, nhất là về đêm. Má tôi đốt đèn măng xông sau sàn lãn để làm cá mắm với mợ Út. Còn tôi với thằng Tâm và Út Mén thì dẫn trâu đạp rơm giữa khoảng sân rộng. Trăng tháng 10 vằng vặc, lũ trẻ chúng tôi mặc sức nô đùa. Út Mén sợ ma, bị chúng tôi núp trong cộ lúa nhát ma làm nó khóc đến xanh mặt. Gọi con Út Mén là thuở 11 - 12 tuổi, chứ sau này, khi Út Mén 18 tuổi, tôi vụng về gọi nó bằng cô Út Lan. Năm đó Út Lan về quê, tôi đứng nơi đầu sông mà dõi mắt về phía cuối sông và ngọng nghịu cất lên câu hò sông Hậu: “Em về Giồng Dứa qua truông/ Gió đưa bông sậy dạ buồn nhớ ai!”.

Ảnh Internet

            Đời của khách thương hồ là đời lênh đênh sông nước, rày đây mai đó, vì vậy, có những nỗi niềm sướng khổ rất riêng. Họ là những kẻ hải hồ lang bạt, mượn bốn phương làm nhà, nếm trải nhiều món ngon vật lạ, thuộc làu trăm nẻo xa xôi… Nhưng họ cũng là người chịu nhiều thiệt thòi vì con cái không được học hành, tai ương hoạn nạn, thiếu một quê hương, thiếu những người thân an ủi, đỡ đần. Cái cảnh mà thuở nhỏ thường xảy ra ở xóm tôi là dân gặt mướn tới nơi thì đổ bệnh, không có sức để làm, cho nên, gần Tết mà không có tiền về xứ. Nhớ đến cái bàn thờ gia tiên lạnh lẽo khói hương nơi miền Tiền Giang xa xôi mà chạnh lòng, họ đi nghêu ngao rồi hò rằng: “Cúc mọc dưới sông kêu bằng cúc thủy/ Sài Gòn xa, chợ Mỹ cũng xa/ Gởi thơ thăm hết mọi nhà/ Trước là phụ mẫu sau là thăm em”… Trước tình cảnh ấy, bà con xóm tôi thường mời họ lên bờ, giữ họ ở lại để cùng ăn Tết với gia đình. Cũng nhậu nhẹt, cũng bánh trái để an ủi kiếp đời tha phương. Lớn lên, tôi cứ thắc mắc mãi không biết vì sao và từ bao giờ mà có tập quán làm ăn của khách thương hồ, và vì sao dân miệt Hậu Giang như ba má tôi lại đùm bọc, thương yêu bà con miệt vườn như tình ruột thịt? Phải mãi sau này, khi nghe người lớn tuổi kể lại và qua tìm hiểu đôi chút về lịch sử khai phá Nam bộ, tôi mới sáng mắt ra.

            Người từ miệt Tiền Giang đổ về Hậu Giang làm ăn thì đã có quá trình hơn 300 năm nay, nhưng có ba làn sóng di dân lớn. Làn sóng thứ nhất là khi thực dân Pháp chiếm ba tỉnh Nam kỳ. Thành quả xây dựng nền văn minh miệt vườn qua 100 năm của miệt Tiền Giang bị tàn phá nặng nề. Nguyễn Đình Chiểu viết: “Bến Nghé, cửa Tiền tan bọt nước/ Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây…”. Những làng quê trù phú, những ruộng vườn thành khoảnh bị gót giày quân xâm lược giẫm nát, dân miệt Tiền Giang phải bồng bế nhau lên những chiếc ghe cui, ghe bầu chạy giặc về miệt Hậu Giang. Làn sóng thứ hai là cơn bão năm Thìn [1904], và tiếp theo là nạn cào cào tàn phá hoa màu vào đầu thế kỷ 20. Thiên tai địch họa đã đẩy dân miệt Tiền Giang vào cảnh đói khổ, và họ bồng chống nhau đi về miệt Hậu Giang. Làn sóng thứ ba là đợt hạn hán năm 1978 - 1979, làm cho vùng Gò Công, Bến Tre, Cửu Long mùa màng bị thất bát nặng nề liên tiếp 2, 3 năm. Thế là họ cũng bồng bế nhau chạy đói về miền Hậu Giang. Người viết bài này đã chứng kiến trận di dân thứ ba. Trên sông Bạc Liêu năm đó dày đặc ghe xuồng, bất kể ngày đêm. Số lượng ghe xuồng nhiều đến cỡ phải liệt vào cấp binh đoàn. Các xóm làng vùng Hậu Giang tràn ngập dân Tiền Giang. Họ đến xin làm mướn, bất cứ làm việc gì. Người có một ít của cải thì chở tủ, bàn, đồng hồ… xuống đổi gạo, đổi khoai. Thậm chí, người ta đổi một cô gái để lấy vài táo gạo. Chính vì thế mà xứ Bạc Liêu bây giờ có rất nhiều nàng dâu từ miệt Tiền Giang được gả chồng vào cái dịp khốn khổ, khốn nạn ấy.

            Ông nội tôi cũng vốn là dân Tiền Giang lưu lạc về đây. Thuở sinh tiền, trong những buổi nhậu độc ẩm, ông khề khà giải thích lý do vì sao khi có hoạn nạn là dân miệt Tiền Giang hay tìm về Hậu Giang. Là vì ở Hậu Giang đất rộng người thưa, dồi dào sản vật, rất dễ kiếm sống. Hơn nữa, dân Hậu Giang hiếu khách không đâu bì kịp. Vào nửa đầu thế kỷ 20 trở về trước, nếp nhà của người Hậu Giang là những căn nhà gỗ ba căn, trước nhà bao giờ cũng có 2 - 3 bộ ngựa gõ dày một tấc để tiếp khách. Khách đến nhà bất luận thân sơ, quen lạ, đều được gia chủ têm trầu mời dùng, đãi cơm rượu ngày ba bữa. Đã thế, họ còn chỉ chỗ đất tốt cho khai phá, cho mượn trâu để cày bừa. Việc chứa khách trong nhà 2 - 3 năm là chuyện bình thường. Đặc biệt, người ta hay chứa trong nhà những ông thầy nghề võ, thầy dạy chữ Nho, thậm chí là cả thầy bùa lỗ ban. Tất nhiên, tính cách phóng khoáng, hào hiệp ấy vốn có căn nguyên của nó. Vùng Hậu Giang xưa ruộng đồng cò bay thẳng cánh, tôm cá trên sông rạch hằng hà, việc khách ở trong nhà bao lâu cũng chẳng làm ảnh hưởng đến vật chất của chủ nhà. Người mới đến khẩn hoang không mâu thuẫn với quyền lợi của người cũ, mà ngược lại, còn hỗ trợ nhau làm ăn. Ví như cấy một công ruộng thì chim, chuột cắn phá hết, nhưng cấy 100 công thì sự phá hoại bị phân tán, và thiệt hại cho mỗi gia đình không đáng kể. Xóm làng càng đông thì thú rừng và bọn trộm cướp không dám bén mảng. Chính vì thế mà hình thành tập quán hiếu khách, lối sống phóng khoáng, hào hiệp đặc biệt của người Hậu Giang.

            Ông nội tôi kể, đời thương hồ của ông tuy cực mà vui lắm! Những đêm trăng thanh gió mát, đậu ghe ở các vàm sông đợi nước, khách thương hồ cất lên những điệu hò tự sự về cuộc đời tha phương cầu thực của mình. Cảm được nỗi lòng ấy, trên bờ, có ai đó ra bờ sông hò đáp lại. Sau đó, ghe xuồng tụ lại một nhiều thêm. Trên bờ sông, người trong các xóm làng heo hút kéo ra đông hơn, hình thành hai phường hò đối đáp nhau. Sau những trận “hò chiến” như thế, có khi khách thương hồ tìm được bến đậu rồi nên nghĩa vợ chồng, nên tình thủ túc.

           Quá trình di chuyển của khách thương hồ từ miệt Tiền Giang về Hậu giang là quá trình hai miệt “cấy người” vào nhau. Ông nội tôi bảo, khi gặt mướn cho nhà ông cố ngoại tôi, thấy ông nội tôi giỏi dắn lại thật thà nên cố ngoại tôi kêu vào ở rể. Khi ông nội tôi ra riêng, trở thành địa chủ manh [ruộng nhỏ, manh mún], năm nào cũng đón bà con quê cũ ở Tiền Giang về nhà ở để gặt mướn. Trong nhóm người đó có má tôi sau này. Người Hậu Giang cũng chẳng hề chê người Tiền Giang, bởi câu hò này đã nói lên điều đó: “Mẹ mong gả thiếp về vườn/ Ăn bông bí luộc, dưa hường nấu canh”. Theo câu hát đó, cô Út tôi được gả theo dượng Út về miệt Tiền Giang. Ban đầu, giữa miệt Tiền Giang và Hậu Giang chỉ có mối quan hệ làm ăn, dần dần có thêm mối quan hệ máu mủ. Người ta đi làm ăn cũng là để thăm nom nhau rồi nghiễm nhiên trở thành khách thương hồ.

            Khi tôi kết thúc bài viết này cũng là lúc gió bấc rao ngọn. Tại các vàm sông, các đầu kinh thủy lợi của Bạc Liêu, khách thương hồ tất bật khiêng mui ghe xuống xuồng để “hồi cố thổ”. Giờ đây, kinh tế của miệt Tiền Giang đã phát triển, nhưng không hiểu vì sao vẫn còn nhiều kiếp đời nổi trôi, tha phương cầu thực? Giải thích thắc mắc của tôi, một ông lão bới tóc củ tỏi, người Tiền Giang, bảo: “Kinh tế gia đình của qua bây giờ không cần phải đi làm mướn. Nhưng hễ tới mùa gió chướng là cái máu lang bạt kỳ hồ nó nổi lên, nôn nao xuống xuồng rong ruổi về miền Hậu Giang. Gặt mướn và mua bán hàng bông trên ghe là cái cớ để đi chơi, để thăm người cũ, chốn cũ ấy mà!”. Nghe ông lão nhắc cái máu lang bạt kỳ hồ tôi mới nhớ. Dân châu thổ sông Cửu Long chằng chịt sông ngòi chúng tôi mới 7, 8 tuổi đã nhảy ùm xuống sông, áp lồng ngực chồm lên ngọn sóng, gọi là giỡn sóng. Nào có hay đâu, chính lúc ấy, cái hồn sông nước đã nhập vào hồn người, làm nên cái máu me lang bạt trên sông nước của con người. Những kiếp đời khách thương hồ ra đời từ dòng máu ấy. Nó nối liền hai miệt Tiền Giang và Hậu Giang mến yêu, làm nên cái thẳm sâu của nền văn minh sông nước Nam bộ.

Nguồn Báo Văn nghệ

Xem bài đầy đủ trong thư mục Báo Văn nghệ >>>

Video liên quan

Chủ Đề