Tiếng kéo gỗ nhọc nhằn trên bãi nắng
BÀI THƠ TIẾNG VIỆT CỦA LƯU QUANG VŨ Tiếng mẹ gọi trong hoàng hôn khói sẫm Tiếng kéo gỗ nhọc nhằn trên bãi nắng Tiếng gọi đò sông vắng bến lau khuya Tiếng lụa xé đau lòng thoi sợi trắng Tiếng dập dồn nước lũ xoáy chân đê. Tiếng cha dặn khi vun cành nhóm lửa Khi hun thuyền, gieo mạ, lúc đưa nôi Tiếng mưa dội ào ào trên mái cọ Nón ai xa thăm thẳm ở bên trời. “Ðá cheo leo trâu trèo trâu trượt...” Ði mòn đàng dứt cỏ đợi người thương Ðây muối mặn gừng cay lòng khế xót Ta như chim trong tiếng Việt như rừng. Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ Ôi tiếng Việt như bùn và như lụa Óng tre ngà và mềm mại như tơ. Tiếng tha thiết, nói thường nghe như hát Kể mọi điều bằng ríu rít âm thanh Như gió nước không thể nào nắm bắt Dấu huyền trầm, dấu ngã chênh vênh. Dấu hỏi dựng suốt ngàn đời lửa cháy Một tiếng vườn rợp bóng lá cành vươn Nghe mát lịm ở đầu môi tiếng suối Tiếng heo may gợi nhớ những con đường. Một đảo nhỏ ngoài khơi nhiều kẻ nhận Vẫn tiếng làng tiếng nước của riêng ta Tiếng chẳng mất khi Loa thành đã mất Nàng Mỵ Châu quỳ xuống lạy cha già. Tiếng thao thức lòng trai ôm ngọc sáng Dưới cát vùi sóng dập chẳng hề nguôi Tiếng tủi cực kẻ ăn cầu ngủ quán Thành Nguyễn Du vằng vặc nỗi thương đời. Trái đất rộng giàu sang bao thứ tiếng Cao quý thâm trầm rực rỡ vui tươi Tiếng Việt rung rinh nhịp đập trái tim người Như tiếng sáo như dây đàn máu nhỏ. Buồm lộng sóng xô, mai về trúc nhớ Phá cũi lồng vời vợi cánh chim bay Tiếng nghẹn ngào như đời mẹ đắng cay Tiếng trong trẻo như hồn dân tộc Việt. Mỗi sớm dậy nghe bốn bề thân thiết Người qua đường chung tiếng Việt cùng tôi Như vị muối chung lòng biển mặn Như dòng sông thương mến chảy muôn đời. Ai thuở trước nói những lời thứ nhất Còn thô sơ như mảnh đá thay rìu Ðiều anh nói hôm nay, chiều sẽ tắt Ai người sau nói tiếp những lời yêu? Ai phiêu bạt nơi chân trời góc biển Có gọi thầm tiếng Việt mỗi đêm khuya? Ai ở phía bên kia cầm súng khác Cùng tôi trong tiếng Việt quay về. Ôi tiếng Việt suốt đời tôi mắc nợ Quên nỗi mình quên áo mặc cơm ăn Trời xanh quá môi tôi hồi hộp quá Tiếng Việt ơi tiếng Việt xót xa tình...
Trích đoạn bài thơ này được sử dụng trong đề thi tốt nghiệp THPT quốc gia môn Ngữ văn năm 2016. Câu 1: xác định biện pháp tu từ trong đoạn thơ trên và tác dụng của Nó ? Trả lời : 1- Thể thơ tự do.
2- Biện pháp tu từ chủ yếu được sử dụng trong văn bản: so sánh: - Ôi tiếng Việt như đất cày , như lụa - Óng tre ngà và mềm mại như tơ - Tiếng tha thiết nói thường nghe như hát - Như gió nước không thể nào nắm bắt Tác dụng : hữu hình hóa vẻ đẹp của tiếng Việt bằng các hình ảnh, âm thanh; tiếng Việt đẹp bởi hình và thanh. Tác giả đã dùng nghệ thuật ẩn dụ khi ngầm so sánh sức mạnh của lòng yêu nước với “ một làn sóng” ; + Dùng phép điệp trong cấu trúc “ nó kết thành”,” nó lướt qua”, “ nó nhấn chìm”… + Điệp từ “ nó” + Phép liệt kê. Câu 2: Chỉ ra các đặc điểm ….. Trả lời : Không phải ngẫu nhiên nhiều nhà phê bình văn học cho rằng bài thơ Tiếng Việt của nhà viết kịch, nhà thơ Lưu Quang Vũ phải được chọn đưa vào chương trình Ngữ văn trung học. Tôi nghĩ, đây là ý kiến cần được quan tâm bởi Tiếng Việt là một trong những bài thơ hay viết về tiếng nói dân tộc. Nếu được chọn, bài thơ không những hội đủ các tiêu chí của một tác phẩm văn học có giá trị về nội dung và nghệ thuật mà còn có tính tích hợp cao với các phân môn Tiếng Việt, Tập làm văn. Với tất cả lòng yêu quý và trân trọng tiếng mẹ đẻ, nhà thơ Lưu Quang Vũ đã tạo ra mạch nguồn cảm xúc lai láng, trào dâng, bất tận trong bài thơ Tiếng Việt. Mỗi khổ thơ là một cung bậc cảm xúc: có lúc chậm rãi, khoan thai, xa vắng; có khi dồn dập, sôi nổi, riết róng… nhưng cảm xúc chủ đạo vẫn là tha thiết, ân tình: Câu 3: Tình cảm và thái độ của Lưu Q Vũ là gì ? Trả lời : Bài thơ Tiếng Việt của Lưu Quang Vũ – thể hiện Tình yêu nước non, tiếng nói dân tộc.
Câu 4: suy nghĩ của Anh chị về bài thơ này ? Trả lời : Cảm nhận bài thơ Tiếng Việt Lưu Quang VũBài thơ Tiếng Việt Lưu Quang Vũ được viết bằng cái tình đậm đà và thắm thiết và cũng chứa đựng đầy nét nhân ái của con người Việt Nam. Tuy viết về tiếng Việt nhưng nhà thơ đã không bắt đầu bằng những khái niệm trừu tượng mà đó chính là những hình ảnh giản dị và thân thuộc. Đó là những câu thơ giàu sức gợi để con người ta có thể cảm nhận được cuộc sống sinh hoạt của người dân Việt Nam. Bởi chính cuộc sống áy đã hình thành và nuôi dưỡng tiếng nói của dân tộc. Đó cũng chính là lý do nhà thơ đã gợi lên một không gian làng quê thân thuộc và dấu yêu: 12, Tháng Ba 2021, bởi Cong_Chi_Nguyen
Tiếng Việt Tiếng mẹ gọi trong hoàng hôn khói sẫm Cánh đồng xa cò trắng rủ nhau về Có con nghé trên lưng bùn ướt đẫm Nghe xạc xào gió thổi giữa cau tre. Tiếng kéo gỗ nhọc nhằn trên bãi nắng Tiếng gọi đò sông vắng bến lau khuya Tiếng lụa xé đau lòng thoi sợi trắng Tiếng dập dồn nước lũ xoáy chân đê. Tiếng cha dặn khi vun cành nhóm lửa Khi hun thuyền, gieo mạ, lúc đưa nôi Tiếng mưa dội ào ào trên mái cọ Nón ai xa thăm thẳm ở bên trời. “Ðá cheo leo trâu trèo trâu trượt...” Ði mòn đàng dứt cỏ đợi người thương Ðây muối mặn gừng cay lòng (...) 16, Tháng Ba 2007, bởi Cong_Chi_Nguyen
Nhà thơ và nhà soạn kịch đặc biệt nổi tiếng thời kỳ bắt đầu Đổi mới từ 1986. Xem thêm: Nhà thơ Xuân Quỳnh TIỂU SỬ Lưu Quang Vũ sinh ngày 17-4-1948 tại xã Thiệu Cơ, huyện Hạ Hòa, Phú Thọ, là con của nghệ sĩ Lưu Quang Thuận. Thuở nhỏ sống cùng gia đình ở chiến khu Việt Bắc. Năm 1954 sau khi giải phóng Hà Nội, Vũ về thành phố này và học trường phổ thông. Chiến tranh bùng nổ, chàng trai thủ đô nhập ngũ năm 1965 và bắt đầu đăng thơ. Năm 1970 xuất ngũ, Lưu Quang Vũ làm nhiều nghề khác nhau. Từ tháng 8-1979 cho đến khi mất, ông là một phóng (...) 20, Tháng Tư 2020, bởi Kim Thanh
(Nhân 72 năm ngày sinh của nhà thơ lớn, kịch tác gia thiên tài Lưu Quang Vũ 17-4-1948) |