Top 10 tỉnh học giới nhất Việt Nam
Tuy nhiên, cần có sự đối sánh tương quan quy trình tiến độ 5 năm ( 2017 – 2021 ) để biết được quy trình tiến triển chất lượng giáo dục của từng địa phương, qua đó phân nhóm giúp biết được vị trí của mình để không ngừng nâng cấp cải tiến chất lượng giáo dục . Dựa vào hiệu quả xếp hạng hằng năm theo tiêu chuẩn : điểm trung bình tốt nghiệp của những địa phương xếp từ cao đến thấp trong quá trình 2017 – 2021, chúng tôi triển khai tính trung bình thứ hạng cho từng địa phương và sắp xếp từ nhỏ đến lớn . Từ hiệu quả này hoàn toàn có thể phân loại những tỉnh, TP thành 3 nhóm : nhóm 20 địa phương đầu có chất lượng tốt và không thay đổi ; nhóm 23 địa phương có chất lượng thấp hơn, thứ hạng trồi sụt ; nhóm 20 địa phương cuối, chất lượng giáo dục đại trà phổ thông còn thấp . Show 20 tỉnh, TP có chất lượng giáo dục phổ thông tốtNhóm đầu tiên gồm 20 tỉnh, TP có chất lượng giáo dục phổ thông tốt, ổn định. Trong đó, vùng đồng bằng sông Hồng có 7 địa phương: Nam Định (xếp hạng 1), Ninh Bình (2), Hà Nam (3), Vĩnh Phúc (6), Hải Phòng (9), Thái Bình (14), Hải Dương (16); vùng ĐBSCL có 7 địa phương: An Giang (5), Bạc Liêu (8), Vĩnh Long (12), Cần Thơ (13), Tiền Giang (17), Bến Tre (18), Đồng Tháp (19); vùng Đông Nam bộ 3 địa phương: Bình Dương (4), TP.HCM (7), Bà Rịa-Vũng Tàu (20); Tây nguyên có Lâm Đồng (10); miền núi phía bắc có Phú Thọ (11); Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung có Bình Thuận (15).
Bạn đang đọc: Địa phương nào dẫn đầu chất lượng giáo dục? Trong nhóm này, những địa phương luôn giữ vững thứ hạng cao như Tỉnh Nam Định có 3 năm xếp hạng 1, hai năm hạng 2. Tỉnh Bình Dương có sự văn minh vượt bậc khi năm 2017 xếp hạng 8, năm 2021 hạng 1. Vĩnh Long từ hạng 12 năm 2017 nâng lên hạng 8 năm 2021. Tuy nhiên, cũng có tỉnh tụt hạng như Bình Thuận năm 2017 xếp hạng 11, năm 2021 hạng 20 .
23 địa phương có chất lượng trồi sụtNhóm thứ hai gồm 23 tỉnh, TP có chất lượng tốt nghiệp trung học phổ thông thấp hơn. Trong đó, vùng miền núi phía bắc có 3 địa phương : Bắc Giang ( 21 ), Tỉnh Lào Cai ( 24 ), Tuyên Quang ( 39 ) ; đồng bằng sông Hồng có 3 địa phương : TP Bắc Ninh ( 22 ), Thành Phố Hà Nội ( 23 ), Hưng Yên ( 33 ) ; vùng ĐBSCL có 6 địa phương : Long An ( 25 ), Cà Mau ( 32 ), Sóc Trăng ( 36 ), Trà Vinh ( 40 ), Kiên Giang ( 42 ), Hậu Giang ( 43 ) ; Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung có 7 địa phương : Nghệ An ( 37 ), thành phố Hà Tĩnh ( 28 ), Thừa Thiên-Huế ( 29 ), Tỉnh Bình Định ( 34 ), Khánh Hòa ( 35 ), Thành Phố Đà Nẵng ( 38 ), Quảng Trị ( 41 ) ; Đông Nam bộ có 3 địa phương : Tây Ninh ( 26 ), Bình Phước ( 27 ), Đồng Nai ( 30 ). Tây nguyên có 1 địa phương : Kon Tum ( 31 ) . Ở nhóm này năm 2021 có 1 số ít địa phương tăng hạng vượt bậc so với 2018, như Tỉnh Bình Định từ hạng 45 lên 30, Hà Tĩnh từ 25 lên 17, Thừa Thiên-Huế từ 33 lên 18 và Nghệ An từ 42 lên 36 . Bên cạnh đó, cũng có địa phương tụt hạng khá mạnh so với năm 2018 như : Trà Vinh từ hạng 34 tụt xuống hạng 53, Quảng Trị từ 38 xuống 56, Kon Tum từ 23 xuống 40 . Đáng quan tâm, TP.HN và Thành Phố Đà Nẵng là 2 TP thường trực T.Ư nhưng chất lượng giáo dục đại trà phổ thông chưa cao, TP.HN có xếp hạng hằng năm từ 23 – 26 ( năm 2021 xếp hạng 25, tụt 2 bậc so với 2020 ), còn TP. Đà Nẵng giao động từ 33 – 43 . \ n
20 địa phương chất lượng còn thấpNhóm thứ ba gồm 20 tỉnh có chất lượng giáo dục còn nhiều khó khăn, nhiều tỉnh luôn xếp top cuối. Trong đó, vùng núi phía bắc có 11 địa phương: Bắc Kạn (45), Quảng Ninh (47), Điện Biên (48), Yên Bái (49), Thái Nguyên (50), Lạng Sơn (51), Lai Châu (53), Cao Bằng (60), Hòa Bình (61), Sơn La (62) và Hà Giang (63). Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung có 5 địa phương: Thanh Hóa (46), Quảng Bình (52), Quảng Ngãi (54), Quảng Nam (57), Phú Yên (58); Tây nguyên có 3 địa phương: Gia Lai (44), Đắk Nông (56), Đắk Lắk (59). Nhóm thứ ba chủ yếu là các tỉnh ở vùng núi phía bắc, Tây nguyên và miền Trung nhưng có huyện miền núi, nhiều học sinh là dân tộc ít người. Một số tỉnh thuộc nhóm này luôn nằm trong top 10 tỉnh cuối như: Quảng Ngãi, Ninh Thuận, Đắk Nông, Quảng Nam, Phú Yên, Đắk Lắk, Cao Bằng, Hòa Bình, Sơn La, Hà Giang. Giáo dục ĐBSCL tiến bộ vượt bậcTrong 5 năm qua, chất lượng giáo dục đại trà phổ thông những địa phương vùng ĐBSCL có nhiều văn minh vượt bậc, khi có tới 7 địa phương thuộc nhóm một, 6 địa phương thuộc nhóm hai, không có địa phương thuộc nhóm ba. Trong đó An Giang và Bạc Liêu luôn có thứ hạng nằm trong top 10 ; còn Vĩnh Long, Cần Thơ có năm lọt vào top này .
Điều này cho thấy có sự nỗ lực rất lớn của giáo dục những tỉnh ĐBSCL, cung ứng nhu yếu của thay đổi giáo dục lúc bấy giờ. Tuy nhiên theo tác dụng tìm hiểu dân số năm 2019, tỷ suất tốt nghiệp trung học phổ thông người dân từ 15 tuổi trở lên của ĐBSCL thấp nhất cả nước. Vì vậy, những địa phương ĐBSCL cần nâng cao tỷ suất kêu gọi học viên đi học trung học cơ sở, trung học phổ thông đúng độ tuổi .
Vùng đồng bằng sông Hồng có chất lượng giáo dục tốt nhất, khi có 5 địa phương luôn nằm trong top 10 là Tỉnh Nam Định, Hà Nam, Tỉnh Ninh Bình, Vĩnh Phúc và Hải Phòng Đất Cảng. Tuy nhiên, Thành Phố Hà Nội là TP lớn, là địa phương đứng vị trí số 1 cả nước về thành tích học viên giỏi và số điểm 10 thi trung học phổ thông nhưng thứ hạng hằng năm ở mức 23 – 26. Điều này cho thấy giáo dục TP.HN có sự phân hóa mạnh ; 1 số ít địa phương miền núi như Lương Sơn ( Hòa Bình cũ ), hay một số ít địa phương thuộc Hà Tây trước đây chất lượng giáo dục chưa cao. TP. Hà Nội cần hướng tới nằm trong top 10 của cả nước .
Bình Dương có điểm trung bình Lịch sử và Địa lý cao nhất, Đà Nẵng vào nhóm thấp nhất cả ba môn thuộc tổ hợp Khoa học xã hội. Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong hơn một triệu thí sinh đăng ký dự thi tốt nghiệp THPT, có 542.000 em lựa chọn thi bài Khoa học xã hội, chưa kể thí sinh tự do đăng ký thi 1-2 môn trong tổ hợp. Số thí sinh lựa chọn tổ hợp này hàng năm có xu hướng tăng. Hiệu trưởng một số trường THPT cho rằng sở dĩ Khoa học xã hội được chọn nhiều do dễ ôn tập, dễ kiếm điểm hơn. Những em lựa chọn thường đăng ký xét tuyển vào các trường đại học, cao đẳng bằng tổ hợp D01 (Toán, Văn, Anh), C00 (Văn, Sử, Địa). Nhiều em không sử dụng đến tổ hợp môn này để xét tuyển mà chỉ dùng điểm để xét tốt nghiệp do đã trúng tuyển bằng phương thức khác. Bình Dương dẫn đầu môn Lịch sử Lịch sử là một trong ba môn thi tốt nghiệp THPT bị giảm điểm trung bình so với năm ngoái. Từ mức 5,19, cao hơn môn Tiếng Anh ở năm ngoái, kết quả trung bình năm nay của môn này tụt xuống còn 4,97, trở thành môn duy nhất dưới 5. Có 266 thí sinh đạt điểm 10 Lịch sử, 540 em bị điểm liệt. Đỉnh của phổ điểm ở mức 4 khiến biểu đồ lệch hẳn sang trái. Giống như năm ngoái, Bình Dương tiếp tục dẫn đầu kết quả Lịch sử. Tuy nhiên, mức trung bình địa phương này đạt được cũng chưa đạt 6 điểm. Những tỉnh, thành khác tiếp tục nằm trong top 10 là An Giang, Nam Định, Vĩnh Phúc, Ninh Bình, Bạc Liêu, Phú Thọ, Hà Nam. Thứ hạng có chút thay đổi so với năm ngoái, An Giang và Nam Định đổi vị trí cho nhau, Vĩnh Phúc vươn từ thứ 6 lên thứ 4. Hai cái tên mới xuất hiện so với năm ngoái là Vĩnh Long và TP HCM. Hai tỉnh, thành này lần lượt đứng hai vị trí cuối trong top 10 với điểm trung bình là 5,347 và 5,27. Ở nhóm cuối bảng xếp hạng điểm trung bình môn Lịch sử, Hà Giang đứng đầu bảng, chỉ đạt 4,371, kém xa so với mức trung bình của cả nước. Đà Nẵng đứng thứ hai từ dưới lên với 4,526 điểm, trong khi năm ngoái thành phố này không rơi vào top 10 địa phương có điểm Lịch sử tệ nhất. Một cái tên khác mới xuất hiện năm nay là Khánh Hòa, đứng vị trí thứ 9 với 4,66 điểm. Trong khi đó, Quảng Ninh và Hòa Bình đã thoát ra khỏi nhóm. Hải Phòng rời nhóm có điểm Địa lý cao nhất Phổ điểm môn Địa lý khá đẹp với đỉnh nằm ở mức 7. Điểm trung bình môn này là 6,96. Số thí sinh đạt điểm tuyệt đối là 227, số bị liệt là 118 em. Bình Dương, Nam Định, An Giang, Ninh Bình cho thấy thế mạnh ở các môn xã hội khi tiếp tục chiếm lĩnh những vị trí đầu xét theo điểm trung bình môn Địa lý. Trong đó, Bình Dương có điểm cao nhất - 7,525. Trong top 10, trừ Bắc Kạn, các tỉnh thành còn lại đều góp mặt từ năm ngoái. Bắc Kạn đứng vị trí thứ 10 với 7,192 điểm, đẩy Hải Phòng - địa phương hai năm liên tiếp được gọi tên, phải rời nhóm có điểm Địa lý cao nhất. Tương tự Lịch sử, Hà Giang "đội sổ" ở môn Địa lý với điểm trung bình 6,395. Cao hơn một chút, Quảng Ngãi đạt 6,495 điểm. Đà Nẵng lại vào nhóm thấp nhất ở môn Địa lý khi chỉ đạt mức trung bình 6,571, đứng thứ ba từ dưới lên, cao hơn ở môn Lịch sử một bậc. Những địa phương còn lại trong số 10 tỉnh, thành có điểm Địa lý thấp nhất là Quảng Nam, Ninh Thuận, Đăk Lăk, Phú Yên, Hòa Bình, Sơn La và Gia Lai. Trong đó, Gia Lai mới rơi vào nhóm này năm nay. Sơn La từ vị trí áp chót năm ngoái tăng 7 bậc. Ninh Bình đỉnh bảng môn Giáo dục công dân Môn Giáo dục công dân có kết quả tốt nhất ở kỳ thi tốt nghiệp THPT với điểm trung bình 8,37. Đặc biệt, có tới 18.680 trong số 24.555 điểm 10 năm nay thuộc môn này. Ninh Bình lần thứ ba liên tiếp có điểm trung bình Giáo dục công dân cao nhất cả nước, đạt 9,071, tăng hơn 0,3 so với năm ngoái. Hai tỉnh khác có kết quả trên 9 là Vĩnh Phúc và Bình Dương. Với mức điểm tiệm cận 9, dù cao hơn năm ngoái, Nam Định vẫn bị tụt một bậc. Trong khi đó, Hà Nam từ vị trí thứ 9 lên thứ 5. Bạc Liêu là cái tên mới, xếp thứ 10 với 8,717 điểm. Trong nhóm cuối, Hà Giang và Quảng Ngãi đổi vị trí cho nhau so với năm ngoái. Cũng nhờ điều này, Hà Giang không còn là tỉnh đứng cuối cùng ở cả ba môn thuộc tổ hợp Khoa học xã hội. Đà Nẵng lần thứ ba được nhắc tên ở nhóm cuối dù điểm trung bình đạt 8,012. Các tỉnh, thành còn lại trong top 10 địa phương có điểm Giáo dục công dân thấp nhất là Phú Yên, Quảng Nam, Quảng Trị, Ninh Thuận, Đăk Lăk, Cao Bằng và Đăk Nông. Thuộc nhóm thấp nhất nhưng điểm trung bình của các tỉnh đều đạt mức 7,5-8. Dù vậy, không nhiều đại học sử dụng kết quả môn này để xét tuyển. Dương Tâm |