Bài học rút ra từ khởi nghĩa Bắc Sơn và Nam Kì

Các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kì và Binh Biến Đô Lương có ý nghĩa như thế nào đối với tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945
. Bài tập 5 trang 77 Sách Bài tập [SBT] Lịch Sử 9 – Bài 21. Việt Nam trong những năm 1939-1945

Các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kì và Binh Biến Đô Lương có ý nghĩa như thế nào đối với tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945

Hướng dẫn làm bài:

Khởi nghĩa Bắc Sơn [27/9/1940] Ý nghĩa 

Cuộc khởi nghĩa tuy thất bại nhưng đã để lại nhiều bài học về khởi nghĩa vũ trang cho Đảng. Đặc biệt, trong cuộc khởi nghĩa, đội du kích Bắc Sơn được thành lập – Đây là lực lượng vũ trang cách mạng đầu tiên của ta. 

Khởi nghĩa Nam kỳ [23/ 11/ 1940] bị phát động khởi nghĩa và cử đại diện ra xin chỉ thị của Trung ương. Trung ương quyết định đình chỉ cuộc khởi nghĩa. Ý nghĩa: Chứng tỏ tinh thần yêu nước của các tầng lớp nhân dân Nam Bộ, sẵn sàng đứng lên chiến đấu chống quân thù . 

Cuộc binh biến Đô Lương [13/1/1941]

Quảng cáo

Ý nghĩa và bài học của ba sự kiện trên :

Ba cuộc khởi nghĩa trên thất bại là do kẻ thù còn quá mạnh, lực lượng cách mạng chưa được tổ chức và chuẩn bị đầy đủ. Tuy vậy, ba cuộc khởi nghĩa vẫn có ý nghĩa to lớn: Nêu cao tinh thần anh dũng, bất khuất của dân tộc Việt Nam. Đó là tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh bằng vũ lực của các dân tộc Đông Dương. 

Để lại cho Đảng những bài học kinh nghiệm quý báu về chuẩn bị lực lượng và xác định thời cơ cách mạng, phục vụ cho việc lãnh đạo cuộc khởi nghĩa tháng Tám sau này.

Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipiscing elit.Morbi adipiscing gravdio, sit amet suscipit risus ultrices eu.Fusce viverra neque at purus laoreet consequa.Vivamus vulputate posuere nisl quis consequat.

Create an account

Bài học thứ nhất là có một đảng tiên phong thật sự cách mạng, tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, được tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng đã nắm vững hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn lịch sử, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, có phương pháp và hình thức đấu tranh phù hợp; biết nắm bắt thời cơ, xây dựng lực lượng và tổ chức, sử dụng lực lượng; phát huy được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để dẫn dắt quần chúng đứng lên giành và giữ chính quyền.

Bài học thứ hai là vấn đề giành và giữ chính quyền. Đảng ta đã biết chăm lo xây dựng lực lượng cách mạng, làm cho lực lượng cách mạng đủ mạnh, thu hút được đông đảo quần chúng tham gia, từ đó làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch, tạo ra thời cơ cách mạng để đưa cuộc cách mạng đến thành công. Để giữ vững chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã dựa chắc vào nhân dân, tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thần để đấu tranh thắng lợi với thù trong giặc ngoài. Đảng ta biết kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và sử dụng bạo lực cách mạng thích hợp và đúng lúc để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. 

Bài học thứ ba là vấn đề nắm bắt được thời cơ, đề ra được những quyết định chính xác và kịp thời. Nghệ thuật chỉ đạo tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc chọn đúng thời cơ, ra quyết định Tổng khởi nghĩa đúng lúc thể hiện cụ thể trong chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng tháng 3-1945 “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và bản Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc phát đi đêm 13-8-1945.

Cũng nhờ chọn đúng thời cơ mà sức mạnh của nhân dân ta trong Cách mạng Tháng Tám được nhân lên gấp bội, đã tiến hành tổng khởi nghĩa thành công trong phạm vi cả nước trong thời gian ngắn.

Du kích tham gia cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, tháng 9/1940. [Ảnh tư liệu]

[Thanhuytphcm.vn] - Tháng 6 năm 1940, thực dân Pháp đầu hàng phát xít Đức trong thế chiến thứ hai. Tại Đông Dương, Pháp thẳng tay cướp bóc, khủng bố các phong trào đấu tranh của nhân dân. Một tâm lý bao trùm khắp nơi là nhiều người muốn nhân cơ hội này đứng dậy lật đổ ách thống trị thực dân, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, đây là cơ hội tốt nhất để giành lại chính quyền.

Dưới ánh sáng của Nghị quyết Trung ương lần thứ sáu [tháng 11 năm 1939], phong trào cách mạng của Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới, ở một số địa phương, xuất hiện hình thức đấu tranh vũ trang. Trong đó, tiêu biểu nhất là cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn [ngày 27 tháng 9 năm 1940], khởi nghĩa Nam Kỳ [ngày 23 tháng 11 năm 1940]. Đó là những sự kiện lịch sử đánh dấu thời kỳ kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về tay nhân dân.

Từ khởi nghĩa Bắc Sơn

Ngày 27 tháng 9 năm 1940, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Bắc Sơn [Lạng Sơn], nhân dân đã nổi dậy chặn đánh tân binh Pháp tháo chạy về Thái Nguyên qua Bắc Sơn, đánh chiếm đồn Mỏ Nhài[1]. Xét về diện tích địa bàn có khởi nghĩa thì khởi nghĩa Bắc Sơn không rộng, nhưng xét về độ ảnh hưởng tích cực cho cuộc vận động cách mạng năm 1945 thì phải thừa nhận sức lan tỏa lớn của cuộc khởi nghĩa. Hội nghị Trung ương lần thứ bảy [tháng 11 năm 1940] đã nhận định rằng “khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra đúng lúc”. Lời nhận xét đó có ý nghĩa rằng sau khi Nhật bắt đầu vào Đông Dương, quân Pháp tháo chạy ở Lạng Sơn thì ở Bắc Sơn đã có điều kiện khởi nghĩa từng phần trong điều kiện có thể tránh khỏi bị tiêu diệt bởi Pháp quay trở lại hay Nhật đang vào.

Ngày 16 tháng 10 năm 1940, đồng chí Trần Đăng Ninh sau khi được Xứ ủy Bắc Kỳ cử lên Bắc Sơn chỉ đạo cuộc khởi nghĩa đã ra chỉ thị thành lập đội du kích Bắc Sơn với 5 trung đội vũ trang, duy trì lực lượng để hoạt động chính trị là thượng sách[2]. Nhận định về cuộc khỏi nghĩa Bắc Sơn, đồng chí Trường Chinh đã nói: “Ưu điểm lớn nhất của nhân dân Bắc Sơn là đã kịp nổi dậy giành chính quyền khi quân đội phát xít Nhật xâm lược Lạng Sơn và hàng ngũ quân Pháp cùng bè lũ tay sai đã hoang mang, dao động đến cực điểm”[3].

Đến khởi nghĩa Nam Kỳ

Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra ngày 23 tháng 11 năm 1940 là cuộc nổi dậy rộng lớn nhất trong sự nghiệp đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược sau khởi nghĩa Trương Định năm 1859. Nội thành Sài Gòn không nổ súng nhưng Chợ Lớn, Gia Định và các tỉnh khác của Nam Kỳ đã nổi dậy như triều dâng thác đổ.

Khởi nghĩa Nam Kỳ. [Ảnh tư liệu]

Cuộc khởi nghĩa không thành công, thực dân Pháp khủng bố khởi nghĩa Nam Kỳ dữ dội hơn nhiều lần khởi nghĩa Yên Bái, Xô viết Nghệ - Tĩnh. Tổn thất của cách mạng cực kỳ lớn, chưa có sách nào ghi lại đầy đủ những chương bi kịch về bản tráng ca hào hùng năm ấy. Sau thất bại khởi nghĩa Nam Kỳ, những người lãnh đạo và đảng viên cộng sản còn lại đã rút kinh nghiệm xương máu từ chính cuộc khởi nghĩa. Thời cơ cách mạng chưa chín muồi là vấn đề đầu tiên được các tài liệu sống tham gia khởi nghĩa đặt ra khi nói về thất bại của cuộc khởi nghĩa.

Chính Xứ ủy Nam Kỳ cũng nhận thấy rằng các điều kiện chưa đầy đủ để phát động khởi nghĩa vũ trang. Ngày 8 tháng 10 năm 1940, Thường vụ Xứ ủy đã gửi chỉ thị cho các tỉnh ủy hãy khoan phát động khởi nghĩa vì chưa đủ điều kiện, nếu khởi nghĩa non sẽ thất bại như hồi 1930-1931[4]. Tại Hội nghị Xứ ủy tháng 9 năm 1940 đã nhận định về chủ quan thời cơ chưa chín muồi nhưng nếu không khởi nghĩa thì có hại, quần chúng sẽ tan rã mất tinh thần, nếu ta lùi bước quần chúng sẽ xa rời Đảng, Đảng sẽ mất ảnh hưởng và mất tín nhiệm trong quần chúng. Do vậy, Thường vụ Xứ ủy vẫn quyết định hạ lệnh khởi nghĩa.

Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ mặc dù diễn ra trên địa bàn rộng lớn nhưng vẫn là cuộc khởi nghĩa địa phương, ở Nam Kỳ và chỉ một phần Nam Kỳ thôi. Khởi nghĩa Nam Kỳ do một mình Xứ ủy Nam Kỳ quyết định, Trung ương có biết, không chuẩn y, yêu cầu hoãn nhưng chỉ thị về đến không kịp. Lẽ ra nếu biết chỉ đạo của Trung ương tựa như chỉ đạo trong cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn thì cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại có thể giảm, việc bảo toàn lực lượng có thể thực hiện.

Lược đồ khởi nghĩa Nam Kỳ. [Nguồn: Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Thành phố Hồ chí Minh, Khởi nghĩa Nam Kỳ [1940], Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1990]

Kinh nghiệm của khởi nghĩa Bắc Sơn và khởi nghĩa Nam Kỳ cho phép nảy sinh ra chủ trương mới là trong điều kiện nhất định, tổ chức cách mạng có thể làm khởi nghĩa từng phần, giải phóng từng khu vực để tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Cùng với thực tiễn của phong trào Xô viết - Nghệ Tĩnh, khởi nghĩa Bắc Sơn và cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ đã tạo cơ sở để Đảng ta đề ra chủ trương đi từ khởi nghĩa từng phần ở từng địa phương tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Xét dưới góc độ hoàn cảnh và thời cơ lịch sử, khởi nghĩa Bắc Sơn và khởi nghĩa Nam Kỳ là những cuộc khởi nghĩa non nhưng trong thời điểm bấy giờ là một cuộc khởi nghĩa có ý nghĩa lịch sử to lớn, có sức lan tỏa mạnh mẽ. Tinh thần của hai cuộc khởi nghĩa là tinh thần đấu tranh quật khởi của lòng yêu nước, ý chí quyết tâm vì khát vọng độc lập, tự do của nhân dân hai miền Nam – Bắc.

Mặc dù chưa giành được thắng lợi triệt để nhưng cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn và cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ đã ghi nhận bước trưởng thành lớn mạnh của phong trào cách mạng nước ta trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Từ những hình thức đấu tranh nhỏ với mục tiêu đòi quyền dân sinh, dân chủ, đã từng bước tiến hành đấu tranh vũ trang, tập dượt cho quần chúng nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền. Bài học kinh nghiệm về dự đoán đúng và nắm bắt thời cơ rút ra từ hai cuộc khởi nghĩa là điều kiện quan trọng, góp phần vào kho tàng kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo phong trào cách mạng dân tộc

Sơn Thủy

--------------------

[1] Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng Tỉnh ủy Lạng Sơn, Sơ thảo lịch sử đấu tranh cách mạng huyện Bắc Sơn, tr.33.

[2] Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn, Sơ thảo Lịch sử Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn 1930 -1954, 1986, tr. 41.

[3] Trường Chinh, Diễn văn đọc trong lễ kỷ niệm lần thứ 40 ngày khởi nghĩa Bắc Sơn, Báo Nhân dân, ngày 30 tháng 9 năm 1980.

[4] Khởi nghĩa Nam Kỳ năm 1940 - Bản tráng ca sống mãi, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2010, tr.456.

Tin liên quan

Video liên quan

Chủ Đề