Biểu hiện của truyền thống hiếu học là gì
Về tính hiếu học của người Việt xưa và nayCao Xuân Hạo Người Việt Nam ta thường rất tự hào về tính hiếu học hình như đã thành một truyền thống lâu đời của dân tộc. Người nước ngoài, nhất là ở các nước không phải là Nga hay Đông Âu, cũng rất sẵn sàng thừa nhận đức tính này của dân ta. Những giải thưởng quốc tế mà học sinh ta giành được có thể làm cơ sở cho điều này. Riêng ở Nga và Đông Âu thì có khác một chút. Nhưng điều này ta sẽ tìm hiểu sau. Vậy cái đức tính hiếu học ấy vì đâu mà có? Và nếu có, cái truyền thống lâu đời ấy nảy sinh như thế nào, và ngày nay có còn được bảo tồn và tiếp nối không?
Và được cả làng trọng vọng. Một ông đồ đi thi nhiều phen không đỗ, đành từ bỏ tham vọng khoa bảng ở nhà gõ đầu trẻ, cũng vẫn được dân làng trọng vọng với tư cách một người thầy của con cái họ, niềm hy vọng cho tương lai của gia đình họ. Và họ cũng biết phân biệt tài năng với vận may: Học tài thi phận. Nhưng tài năng và ý chí vẫn là những cơ sở vững chắc của một tương lai đáng cho người dân mơ ước, và vẫn đáng được trọng vọng vì đó là những giá trị đích thực của con người, vì con người, khác với con vật, vốn khát khao tri thức, mà tri thức thì lại đã từ lâu được loài người coi là giá trị cao nhất, vì đó là nhân tố quan trọng nhất có thể đưa họ đến những thành quả tốt đẹp trong cuộc đấu tranh gian khổ với thiên nhiên để xây dựng một cuộc sống hạnh phúc. Như vậy, nội dung của sự ngộ nhận này là ở cách quan niệm mục đích của giáo dục: theo quan niệm này, được học không phải là được trang bị đủ hiểu biết để ra phục vụ đất nước, mà là để có một cái bằng - được quan niệm như một phẩm hàm đem lại một địa vị xã hội nhất định cho người học, một phần xôi thịt thưởng cho những kẻ may mắn được xếp vào một đẳng cấp nhất định, bất chấp năng lực ra sao. Năng lực phục vụ được gọi là “chuyên”, còn thành phần giai cấp được coi là một tiêu chuẩn của “đỏ”. Trên thực tế, “đỏ” là chính, “chuyên” là phụ, mặc dầu trên lý thuyết hai mặt được coi là cần thiết như nhau. Với quan niệm đó, những HS & SV được “ưu tiên” chưa đủ tri thức nghề nghiệp được phát bằng tốt nghiệp và được đưa vào biên chế hay được chọn gửi đi học nước ngoài - hơn nữa, vì những ưu thế về lý lịch họ rất chóng được vào biên chế, được đề bạt và chẳng bao lâu đã trở thành cán bộ lãnh đạo. Những HS & SV “ưu tiên” khi du học được gửi gắm rất cẩn thận và nhờ mối tình hữu nghị anh em giữa các nước xã hội chủ nghĩa, họ thừa sức đỗ bằng phó tiến sỹ hay tiến sỹ, kể cả những người không hề viết một dòng nào trong bản luận văn mà họ đưa ra bảo vệ . Với những hoạt động thương nghiệp mà họ tiến hành xung quanh căn cứ địa “Đôm 5” ở phố Ulyanova (đó là nhà trọ tập thể của nghiên cứu sinh nước ngoài kiêm kho chứa hàng của họ) họ thừa sức bỏ ra mấy ngàn rúp để thuê những bạn khác viết luận văn thay họ. Vả lại, ở các nước Đông Âu không thiếu gì những người chuyên viết hộ luận văn phó tiến sĩ. Tôi có quen hai vợ chồng tiến sĩ người Do Thái Nga sống bằng nghề viết thuê luận văn, chủ yếu là cho các nghiên cứu sinh châu Phi và Việt Nam. Có một điều đáng chú ý là khi gửi các du học sinh này đi, các cán bộ hữu trách thừa biết là những người ấy chính nhờ ô dù của họ, chứ không phải nhờ học lực, mà thành nghiên cứu sinh, nhưng khi điểm lại các cán bộ của cơ quan mình, những người ấy lại thấy quanh mình toàn những nhà bác học tài năng và lấy làm tự hào về chiến lược trọng dụng nhân tài của mình. Tuy vậy, cũng có nhiều người tỉnh táo hơn biết rõ chân giá trị của các tân tiến sĩ nhưng lại sử dụng đội ngũ này làm một ê-kíp cúc cung tận tụy với cá nhân mình vì lòng biết ơn đối với ô dù nhiều hơn là vì tinh thần kỷ luật đối với cấp lãnh đạo. Đã có một thời nhiều giáo sư phản đối kiểu ưu đãi bất công này, vốn rất tai hại cho chính các sinh viên công nông. Họ đòi công bố điểm đích thực của các thí sinh và tình nguyện phụ đạo thêm một hai năm cho các sinh viên công nông chưa đạt trình độ cần thiết trước khi phát bằng tốt nghiệp cho họ. Các giáo sư này, trong đó có cả giáo sư Bộ trưởng Tạ Quang Bửu, không thể chấp nhận tính man trá của việc chính thức công nhận những sinh viên này đã đủ sức phục vụ khi họ chỉ có thể làm hỏng các công trình, làm chết các bệnh nhân, làm hại những học trò của họ. Nhưng mới thực hiện ý định được vài lần họ đã bị trấn áp ngay vì việc công bố điểm này và chủ trương đánh giá khách quan kết quả học tập của HS & SV được coi là một “mũi dao găm đâm sau lưng giai cấp công nông”. Đó mới chỉ là một bước đầu của quá trình xuống cấp nhanh chóng của công tác giáo dục và đào tạo. Những bước tiếp theo không kém phần ngoạn mục, đặc biệt là trong các ngành khoa học xã hội, nhất là văn học và ngôn ngữ, được coi như những ngành hoàn toàn không cần đến “chuyên”, chỉ cần “đỏ”, cần lập trường “tư tưởng”, mà người đã có tư tương tốt thì dù không học giờ nào cũng có thể làm được. Nhưng đề tài chính của bài này chỉ có liên quan gián tiếp đến công việc giáo dục ở nhà trường. Một nền giáo dục kém cỏi sẽ không tác hại bao nhiêu đến lòng hiếu học nếu người có học và học sinh giỏi được xã hội quý trọng hay ít nhất cũng có được một tương lai sáng sủa khi tốt nghiệp. Đàng này cái tương lai chắc chắn nhất của người tốt nghiệp đại học là . . . thất nghiệp (trừ phi có những mối quan hệ xã hội đặc biệt). May ra, chỉ có sinh viện khoa Anh là không phải lo đến cái triển vọng này, vì có thế xin việc khá dễ ở các hãng nước ngoài. Ngay như ở cái thời mà chính sách ngu dân của thực dân Pháp còn ngự trị, tương lai của người đi học còn sáng sủa hơn nhiều: dù chỉ có mảnh bằng “đíp-lôm”, người tốt nghiệp trung học sơ cấp cũng đã có một địa vị vững vàng trong xã hội và một đồng lương đủ nuôi vợ con và báo hiếu cha mẹ. Trong khi đó, một “cử nhân” ngày nay chưa chắc đã kiếm nổi việc làm nếu không chuyển sang một nghề khác hẳn với cái nghề đã học, như nghề gia sư, nghề xích lô, nghề người mẫu hay nghề vũ nữ. Trong một thiên truyện ngắn có tính chất hồi ký, một giáo viên cấp III thuật lại lời một học sinh cãi ông khi ông hơi nặng lời quở trách anh ta không nghiêm túc trong học tập: - Thưa thầy, em có học thật nghiêm túc chăng nữa cũng chỉ giỏi bằng thầy là cùng. Thế nhưng thầy cứ thử nhìn lại cái thân thầy mà xem: lương thầy có đủ sắm một chiếc xe đạp để thay cho chiếc xe tàng thầy vẫn đi không? Khi đã đủ khôn lớn để hiểu ít nhiều về cuộc đời, người học sinh nào cũng rút ra được một bài học quan trọng: nếu mình học giỏi, chỉ có thầy cô và bạn bè khen mà thôi, chứ bên ngoài cái thế giới hạn hẹp của nhà trường, không có một ai coi mình ra gì hết, và với đồng lương mỗi năm mà mình được lĩnh sau khi tốt nghiệp, còn khuya mới tự thết cho mình được một bữa nhậu hàng ngày của một ông giám đốc doanh nghiệp chỉ học đến hết cấp một. Không có nổi một chiếc Honda để đưa đón bạn gái, thì còn nói gì đến máy tính với sách vở chuyên môn? Có thể đó là cách suy nghĩ của những thanh niên tầm thường, không có mấy lý tưởng. Chỉ tiếc là cái loại người “tầm thường” ấy trong xã hội nào cũng chiếm đa số, và không ai thoát được ra ngoài sức tác động của các phương tiện truyền thông đại chúng đang lớn tiếng quảng cáo cho một lối sống “sành điệu”, tức cho thói đua đòi theo những người đã nhờ buôn bán hay tham ô mà có đủ tiền để gia nhập cái lớp người tiêu thụ “sành điệu” được gọi là “thượng đế” trong cơ chế kinh tế thị trường, mà dù có gia nhập được chăng nữa, thì họ cũng không tài nào bì kịp các “thượng đế, cao cấp xài mỗi ngày vài triệu như họ vẫn chứng kiến trong đám bạn bè cũ đã thôi học để chuyển sang nghề kinh doanh. Tuy thế, cái truyền thống hiếu học xưa kia ngày nay vẫn còn. Nó còn sống sót trong một số người thuộc những gia đình có nền nếp: đó là những gia đình đã có vài đời làm nhà giáo, làm thầy thuốc, làm kỹ sư hay là nghệ sĩ, nghĩa là làm nghề lao động trí óc, mà vẫn còn tin ở giá trị của học vấn mặc dầu những sự thật được chứng kiến hàng ngày hoàn toàn phủ định nó. Nó cũng được tiếp tục trong một số người không có truyền thống gia đình trí thức nhưng nhờ sự giáo dục của nhà trường, của sách vở và nhờ ảnh hưởng của những người thầy ưu tú đối với những người học trò ưu tú nhất của họ. Tuy nhiên, nó đang chịu đựng sức xói mòn rất mạnh của cuộc sống thực tế, khiến cho nó mai một đi một cách chắc chắn và nhanh chóng, đến mức nếu bây giờ ai còn nói đến tính hiếu học của người Việt đều không khỏi cảm thấy ngượng nghịu ít nhiều: không biết có thật là “người Việt có truyền thống hiếu học” không, và nếu có, thì bây giờ nó có còn tồn tại nữa hay không? Vốn là người đã làm việc hơn năm mươi năm trong đội ngũ giáo viên trung học và đại học, và hiện đang tiếp tục giảng dạy ở nhiều trường đại học mặc dầu đã về hưu, tôi xin trình bày một số nhỏ trong hàng ngàn biểu hiện không thể chối cãi của sự mai một này, đặc biệt là trong ngành Việt ngữ học mà tôi là một trong những người đã tham gia lâu năm nhất (từ năm t956 là năm đầu tiên có giảng ngữ âm và ngữ pháp tiếng Việt trong trường đại học). Trước hết, xin nói đến các giáo sư đại học, trong đó co nhiều người tham gia với tính cách người biên soạn, chủ biên hay cố vấn về cơ sở lý thuyết, vào việc soạn sách giáo khoa các cấp, nhất là sách giáo khoa tiếng Việt cấp trung học. Những người này chính là tấm gương cho các sinh viên khoa ngữ văn(về sau sẽ là tác giả sách giáo khoa trung học, giáo viên cấp III hay giảng viên đại học). Những năm đầu, phần lớn các giáo sư này (vốn chưa qua một năm đại học ngôn ngữ học nào hết) còn chịu khó đọc vài chục trang sách dẫn luận ngôn ngữ học bằng tiếng Pháp hay tiếng Anh, hoặc nhờ bạn bè dịch cho, rồi những năm sau, khi đã có giáo án hay đã soạn sách giáo khoa, thì tuyệt nhiên không đọc thêm gì nữa, và nhất là sau khi đã có học hàm học vị, lại càng không thấy cần đọc thêm gì nữa, trừ khi nghe đồn những lý thuyết mới, tưởng là có thể quên tất cả các tri thức cũ, chỉ lo nhờ hay thuê ai dịch cho vài chục câu “tủ” trong những cuốn sách tình cờ kiếm được, và bắt đầu viết hàng pho sách dày pha loãng mấy chục câu ấy ra thành chương thành hồi, cố viết thật nhiều trang để tăng thêm nhuận bút. Trong khi đó, hầu hết đều quên hoàn toàn những tri thức ABC mà sinh viên năm thứ nhất phải học từ những giờ đầu. Tôi có tham gia một nhóm chuyên đọc sách giáo khoa và sách nghiên cứu ngôn ngữ học với nhiệm vụ nhặt ra những lỗi của tác giả (hầu hết là Giáo sư ngôn ngữ học) mà lẽ ra sinh viên năm thứ nhất đã học ngôn ngữ học dẫn luận trong ba tháng đầu năm không thể mắc phải (xem mục “Viết nhịu trong Ngôn ngữ & Đời sống, tạp chí của Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, trong đó đã đăng 10 kỳ gồm khoảng vài trăm lỗi về tri thức cơ bản). Trong các sách giáo khoa đại học, chúng tôi đã tìm thấy hơn 2.000 câu chứa đựng những lỗi như thế, và đối với khoảng 72% sách đại học có thể kết luận một cách hoàn toàn có căn cứ rằng có những tác giả chưa bao giờ học ngôn ngữ học hết hoặc đã quên hoàn toàn những tri thức đã học từ năm thứ nhất. Đó là chưa kể những sách giáo khoa “Nhập môn ngôn ngữ học” ngang nhiên phủ nhận tất cả những thành tựu ngôn ngữ học của toàn nhân loại bằng những nhận định “thiên tài” kiểu như “Xưa nay người ta cứ tưởng hai với hai là bốn, trong khi tôi đây đã phát hiện ra rằng 2 với 2 là 7” mà không thấy cần chứng minh lấy một câu nào, và lặp đi lặp lại hàng trăm lần trong một cuốn sách lẽ ra phải giới thiệu cho sinh viên những tri thức cơ bản được toàn thế giới và cả giới ngôn ngữ học Việt Nam công nhận. - Chỉ có thầy và vài ba thầy nữa dạy đủ số giờ, còn thì đều bắt đầu muộn chừng hai mươi phút, giữa giờ gọi chúng em đi uống nước mất vài mươi phút và thường cho về sớm nửa giờ. Điều đáng buồn nhất không phải là có những giảng viên như thế, mà là có một số lớn sinh viên rất thích học với những thầy như thế. Vì cái họ sợ và ghét nhất lại chính là HỌC. - Phần lớn các thầy cô đều lấy sách ra đọc chính tả cho chúng em chép suốt cả buổi. Em không hiểu tại sao thầy cô không cho chúng em mượn sách về photocopy cho thầy cô đỡ tốn công đọc và chúng em đỡ tốn công chép. - Vị giáo sư chuyên giảng môn phương pháp dạy đại học” chỉ mới tốt nghiệp trung học bổ túc, chưa bao giờ học đại học, cho nên nói toàn chuyện vớ vẩn (như ở Mỹ giáo sư đại học chỉ bằng giáo viên cấp hai của ta”; đến khi em đứng dậy hỏi tại sao nhiều giáo sư Mỹ được giải Nobel thế, thì thầy ấy mắng em là “mất lập trường” vì tin một giải thưởng chống Cộng, và dọa đưa em ra Hội đồng kỷ luật). - Trong giờ học, thầy X toàn kể những mối tình thơ mộng của thầy hồi du học bên Nga, cho nên trong giờ của thầy chúng em học được rất nhiều kinh nghiệm về luyến ái quan, nhưng lại không học được bao lăm về khoa học. Những chuyện tiếu lâm như thế không sao kể cho hết, và đều cho thấy một điều quan trọng: đại học là một nơi mà người ta tự cho phép muốn làm gì thì làm, cho nên càng làm cho sinh viên mất nốt lòng tin ở sự cần thiết của lao động học tập. Chút ít lòng hiếu học còn sót lại trong người đi học có nguy cơ bị diệt tận gốc. Hình như ngày nay chế độ thi cử đã khác, không còn có sự phân biệt thành phần giai cấp như hồi trước (thời những năm 60 - 80). Đó là một sự tiến bộ rất đáng mừng. Nhưng hậu quả của thời ấy chưa hẳn đã mất, vì những sản phẩm của thời ấy - những người thầy, những nhà khoa học có học hàm học vị nhưng không có tri thức, những người lãnh đạo các cơ quan chuyên môn không biết chuyên môn - vẫn còn giữ những vị trí then chốt trong từng ngành. Dù là ở các nhà trường hay ở các cơ quan. những hậu quả nói trên vẫn còn tác động đến xã hội ta. Để có một minh hoạ tiêu biểu, ta hãy lấy những điều mắt thấy tai nghe trên các phương tiện truyền thông đại chúng, vốn là những cơ quan có ảnh hưởng thường xuyên nhất đến và rộng rãi nhất đối với dân trí, và có thể cho thấy rõ cái truyền thống hiếu học trứ danh của dân ta ngày nay ra sao. Đài vô tuyến truyền hình có thể coi là nơi tập trung nhiều nhân tài nhất, gồm có đủ các ngành văn hoá, khoa học và nghệ thuật, đủ các ngoại ngữ thông dụng trên thế giới. Thế nhưng, hàng ngày, ta được nghe những lỗi tày trời về đủ các ngành văn hoá , những lỗi về cách dịch và cách phát âm từ đủ các thứ ngoại ngữ, trong đó có những lỗi mà chỉ cần chút ý thức học hỏi là có thể tránh được một cách dễ dàng - chỉ cần hỏi người bên cạnh là biết ngay, chứ chẳng cần đến một trình độ văn hoá phổ thông nào hết. Nhưng người phát thanh viên (hay người biên tập) không thèm hỏi, chính vì tưởng mình cái gì cũng biết rồi, không cần học hỏi gì ai khác nữa, nếu không phải là hoàn toàn vô trách nhiệm đối với công việc chuyên môn của mình. Vả lại, những lỗi này không bao giờ làm cho người phát thanh viên hay biên tập viên bị quở trách hay chê bai, và càng không có ai bị đuổi việc hay cách chức. Cứ lấy một vài trường hợp như cái tên Allah của đạo Hồi chẳng hạn, hay tên Jehovah (hay Javeh) của người Do Thái, vốn có nghĩa là “Thượng đế”, là “Trời”, nhưng từ bốn mươi năm nay đều dịch thành “thánh A-la” hay “thánh Giê-hô-va”. Ở nước ta có hàng trăm ngàn người theo Hồi giáo (nhất là ở dân tộc Chăm), sao không chịu hỏi? Ở ta cũng có hàng chục triệu người công giáo, chỉ cần hỏi là biết ngay, nhưng từ mấy chục năm nay. trong tin tức cũng như trong phim ảnh, người ta đều nói “Nhân danh Cha và Con và Các thánh thần, A-men”, không thèm hỏi một người công giáo bất kỳ để biết rằng đó là ba ngôi, ba vị, trong đó vị thứ ba là Thánh Thần, hay chính xác hơn nữa là Thánh Linh (Sanctus spiritus) cùng làm thành một tổng thể là Thượng đế. Hay như tên gọi nước Mỹ (United States of America) cứ bị dịch thành “Hợp chủng quốc” mặc đầu đã có nhiều người lên tiếng mách bảo mấy lần. Tên gọi các nhân vật (chính khách, vận động viên, tác giả) người Trung Quốc, khi thì phát âm theo cách đọc Hán Việt, khi thì phát âm theo cách phiên âm La-tinh hoá, nhưng phát thanh viên lại không hề hỏi xem chữ phiên âm của Trung Quốc phải đọc như thế nào, cứ đọc bừa theo tiếng Anh hay tiếng Pháp, nghe hết sức kỳ cục. Có lẽ buồn cười nhất là cách đọc tên nữ cầu thủ quần vợt Nhật Date, được phát thanh viên đọc là “Đây-tờ” theo tiếng Anh, trong khi lẽ ra phải đọc là Đa-tê theo cách đọc chữ Romaji (rất dễ đọc) của người Nhật. Nhưng tiêu biểu nhất cho “tinh thần hiếu học” có lẽ là cách đọc chữ “ñ” của tiếng Tây Ban Nha (như trong el niño, và la niña) mà người ta cương quyết đọc là [n] như thể không hề trông thấy cái dấu “ngã” viết trên chữ cái n. Tôi nói “tiêu biểu là vì nếu cái tinh thần hiếu học của dân ta còn tồn tại, thì một khi đã biết rằng n đọc là n, thì ñ tất nhiên phải đọc cách khác, chứ người Tây Ban Nha chẳng phải là một thứ người ngu xuẩn đến nỗi phải thêm một cái dấu “ngã” trên chữ n nếu ñ cũng chỉ đọc là n mà thôi. Người trông thấy chữ ñ ắt phải biết rằng đó là một chữ mà mình chưa học, và phải đi hỏi người khác mới biết được - nếu đương sự là một người còn có chút ít tính hiếu học. Đàng này, tuyệt nhiên không có ai thèm hỏi: mọi người đều cứ thế mà đọc “en nino” và “la nin a” như đọc chữ quốc ngữ. Dĩ nhiên, những lỗi như thế không có gì là quan trọng, nhưng nó rất tiêu biểu cho tinh thần hiếu học của đương sự: những điều đơn giản như thế mà còn không buôn hỏi, huống hồ là những chuyện khó hơn? Chỉ riêng một hiện tượng ấy thôi. thiết tưởng cũng đủ cho thấy rằng cái “tinh thần hiếu học” cổ truyền đã hoàn toàn biến mất trong những con người được xã hội đã giao cho một nhiệm vụ quan trọng là truyền bá văn hoá trong đại chúng. Đặc biệt là những lỗi về tiếng Việt, những cách dùng từ sai, những câu bất thành cú (thường là vì cách dịch sát từng chữ do tính cẩu thả của những người dịch tin nước ngoài truyền bá), đã được nêu lên không biết bao nhiêu lần từ hơn nửa thế kỷ nay mà các biên tập viên cũng cứ lặp lại hàng mấy chục lần trong một buổi truyền hình hay phát thanh, và cứ mỗi năm lại được bổ sung thêm hàng chục kiếu lỗi mới phát minh. Những người lớn có văn hoá chỉ khinh bỉ nhún vai, nhưng thế hệ trẻ, nhất là học sinh tiểu học hay trung học cơ sở, thì lại tưởng đâu đó là một kiểu nói “hiện đại” hơn, vội vàng bắt chước, hoặc tuy không cố bắt chước nhưng nghe nhiều lần đâm quen, không thấy chướng tai nữa, và cứ thế thói nói ẩu, viết ẩu dần dần phổ biến, và rốt cục tiếng Việt trở thành một thứ tiếng tạp nham không còn có quy tắc ngữ pháp gì nữa. Nhiều nhà ngữ học đã tiên đoán rằng chỉ mươi năm nữa, nhờ ảnh hưởng của những câu văn dịch Tây đặc giống cách nói của những ông Tây mới học tiếng Việt được ba tuần được nghe hàng ngày trên đài truyền hình, tiếng Việt sẽ chết hẳn như những thứ tiếng đang chết hàng mấy chục mỗi năm trên hành tinh chúng ta . Để kết luận cho bài tham luận đã khá dài này, tôi chỉ xin bày tỏ một niềm tin rằng chừng nào tính hiếu học hãy còn thoi thóp trong một số người Việt bất chấp sự khinh miệt của xã hội, ta còn có thể hy vọng rằng sẽ có lúc nó được hồi sinh, vì đó là một trong những đức tính cao quý nhất của con người. Nhưng chỉ với điều kiện là chúng ta phải ra sức duy trì nó bằng tất cả tấm long, bất chấp xã hội, bất chấp thời cuộc, bất chấp cơ chế thị trường và những thói rởm đời đi đôi với nó, vì coi khinh học thức chính là dấu hiệu chắc chắn nhất của sự suy vong của dân tộc. Đăng lần đầu tiên trên Nguồn:Tiếng Việt, Văn Việt, Người Việt – Nxb Trẻ giáo dụccải cách giáo dụcvăn hóahiếu họchọc tậphọc tập suốt đờilười họcCao Xuân Hạo |