Đánh giá năng lực tính toán theo oecd năm 2024
Chương trình Đánh giá học sinh quốc tế (Programme for International Student Assessment - PISA) là một khảo sát quốc tế do tổ chức OECD (Organisation for Economic Co-operation and Development) đề xuất, để đánh giá khả năng của học sinh 15 tuổi của các nước và vùng lãnh thổ trong và ngoài OECD, về toán, khoa học và đọc hiểu. Chương trình được thực hiện từ năm 2007 và cứ 3 năm lặp lại một lần. Mục đích của chương trình là cung cấp các dữ liệu so sánh nhằm giúp các nước cải thiện các chính sách và kết quả giáo dục. Chương trình hướng vào việc đo lường sự hiểu biết và khả năng giải quyết vấn đề trong cuộc sống hàng ngày của học sinh. Vào năm 2015 có 72 nước và vùng lãnh thổ, với tổng số khoảng 540.000 học sinh tham gia chương trình. PISA cũng khảo sát các mối quan hệ giữa việc học của học sinh và các yếu tố khác để hiểu rõ sự khác biệt về kết quả trong mỗi nước và giữa các nước. Show Nội dung đánh giá[sửa | sửa mã nguồn]PISA kiểm tra mức hiểu biết và vận dụng trong ba lĩnh vực: đọc hiểu, toán và khoa học. PISA không kiểm tra kiến thức thu được tại trường học mà xem xét năng lực phổ thông thực tế của học sinh. Bài thi chú trọng đánh giá khả năng học sinh vận dụng kiến thức và kỹ năng của mình khi đối mặt với những tình huống và thử thách liên quan đến kiến thức và kỹ năng đó. Về toán học, đánh giá khả năng học sinh vận dụng hiểu biết toán học của họ để giải quyết các vấn đề được đặt ra trong bối cảnh thực tế. Về khoa học, kiểm tra khả năng vận dụng những kiến thức khoa học để hiểu và giải thích các tình huống toán học. Về đọc hiểu, đo lường mực độ vận dụng kiến thức và kỹ năng đọc để hiểu ý nghĩa của những thứ họ đọc được qua nhiều loại tài liệu khác nhau mà họ gặp trong cuộc sống. Tuy mọi lần đánh giá đều được thực hiện trên cả ba lĩnh vực, nhưng mỗi lần có tập trung nhiều hơn vào một lĩnh vực và sẽ thay đổi tuần tự (năm 2000: đọc hiểu; 2003: Toán; 2006: Khoa học; 2009: Đọc hiểu; 2012: Toán; 2015: Khoa học …). Tổ chức đánh giá[sửa | sửa mã nguồn]PISA do OECD đề xuất, bảo trợ và quản lý, các thành viên tham gia đóng góp kinh phí. Lấy mẫu[sửa | sửa mã nguồn]Học sinh tham gia kiểm tra nằm trong độ tuổi từ 15 năm 3 tháng đến 16 năm 2 tháng tính đến ngày kiểm tra, không cần quan tâm đến học lớp mấy, tuy nhiên chỉ đánh giá học sinh học ở trường, không phải tự học tại nhà. Theo yêu cầu đó, mỗi quốc gia phải lấy một mẫu ít nhất 5000 học sinh tham gia. Việc lấy mẫu được thực hiện bằng phương pháp khoa học để đảm bảo tính đại diện cho cả nước (hoặc vùng lãnh thổ) tham gia, và được quản lý rất nghiêm ngặt bởi tổ chức quản lý PISA của OECD. Đối với vài nước có học sinh ít hơn ngưỡng đó (Bỉ, Brussel) thì việc kiểm tra được thực hiện trên toàn bộ học sinh. Một số nước lấy các mẫu lớn hơn so với yêu cầu để có thể so sánh kết quả giữa các vùng trong nước với nhau. Bài kiểm tra và bảng hỏi[sửa | sửa mã nguồn]Mỗi học sinh làm một bài kiểm tra trong 2 giờ. Một phần là các câu hỏi nhiều lựa chọn, một phần khác là các câu hỏi mà học sinh tự tạo câu trả lời, nhưng mỗi học sinh không phải được kiểm tra mọi thành phần của bài thi như nhau. Các bài kiểm tra được dịch sang bản ngữ của các nước tham gia và thẩm định rất cẩn thận. Sau khi làm bài kiểm tra về kiến thức, các thí sinh phải trả lời một bảng hỏi (questionnaire) trong gần một giờ về sở thích, động lực và hoàn cảnh gia đình. Hiệu trưởng nhà trường trả lời bảng hỏi mô tả về học sinh, giáo viên, tài chính v.v.. của trường. PISA được thực hiện phần lớn bằng bài thi trên giấy. Ở một số nước PISA bắt đầu thử nghiệm sử dụng kiểm tra theo phương pháp đáp ứng nhờ máy tính (computer adaptive testing). Phân tích dữ liệu, kết nối và so bằng[sửa | sửa mã nguồn]Dữ liệu từ các bài làm và phiếu kiểm tra của học sinh và hiệu trưởng được nhập vào máy tính, sau đó được tính toán và phân tích. Công cụ phân tích là các phần mềm tính toán dựa trên mô hình Rasch và Lý thuyết Ứng đáp Câu hỏi . Các kết quả kiểm tra từ các nước khác nhau được kết nối (linking), so bằng (equating) đưa lên cùng một thang đo (scaling) để có thể so sánh với nhau. Thang điểm cho các lĩnh vực (toán, đọc hiểu và khoa học) được quy định đặt giá trị trung bình ở 500 điểm và độ lệch tiêu chuẩn bằng 100 điểm.[1] Các bảng hỏi cũng được phân tích, kết nối với kết quả kiểm tra kiến thức về các lĩnh vực để rút ra các nhận xét và đánh giá liên quan đến chính sách và hiệu quả giáo dục. Kết quả[sửa | sửa mã nguồn]Kết quả hàng năm của PISA thường được công bố vào tháng 12 của năm kế tiếp, đăng ở trang web www.oecd.org/pisa, dưới dạng các báo cáo, trong các báo cáo có các bảng sắp xếp điểm trung bình của học sinh từng nước theo các lĩnh vực kiểm tra. OECD không đưa ra điểm tổng hợp của 3 lĩnh vực. Thông thường có thể xem sự sai khác về điểm vào khoảng 9 điểm là có ý nghĩa thống kê (statistically significant). Dưới đây là kết quả ngắn gọn của PISA 2015 được công bố vào ngày 6 tháng 12 năm 2016 dưới dạng bảng xếp thứ tự các nước và vùng lãnh thổ theo từng lĩnh vực đánh giá. Bảng dưới đây được trích từ [PISA, Wikipedia,English]. Từ bảng kết quả có thể thấy Singapore là nước mà kết quả kiểm tra học sinh ở cả ba lĩnh vực đều đứng đầu bảng. Toán học Khoa học Đọc hiểu 1 Singapore 564 2 Hồng Kông 548 3 Ma Cao 544 4 Đài Loan 542 5 Nhật Bản 532 6 Trung Quốc 531 7 Hàn Quốc 524 8 Thụy Sĩ 521 9 Estonia 520 10 Canada 516 11 Hà Lan 512 12 Đan Mạch 511 13 Phần Lan 511 14 Slovenia 510 15 Bỉ 507 16 Đức 506 17 Ba Lan 504 18 Ireland 504 19 Na Uy 502 20 Áo 497 21 New Zealand 495 22 Việt Nam 495 23 Nga 494 24 Thụy Điển 494 25 Úc 494 26 Pháp 493 27 Anh Quốc 492 28 Cộng hòa Séc 492 29 Bồ Đào Nha 492 30 Ý 490 31 Iceland 488 32 Tây Ban Nha 486 33 Luxembourg 486 34 Latvia 482 35 Malta 479 36 Litva 478 37 Hungary 477 38 Slovakia 475 39 Israel 470 40 Hoa Kỳ 470 41 Croatia 464 42 Kazakhstan 460 43 Hy Lạp 454 44 Malaysia 446 45 România 444 46 Bulgaria 441 47 Síp 437 48 Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất 427 49 Chile 423 50 Thổ Nhĩ Kỳ 420 51 Moldova 420 52 Uruguay 418 53 Montenegro 418 54 Trinidad và Tobago 417 55 Thái Lan 415 56 Albania 413 57 Argentina 409 58 México 408 59 Gruzia 404 60 Qatar 402 61 Costa Rica 400 62 Liban 396 63 Colombia 390 64 Peru 387 65 Indonesia 386 66 Jordan 380 67 Brasil 377 68 Macedonia 371 69 Tunisia 367 70 Kosovo 362 71 Algérie 360 72 Cộng hòa Dominica 328 1 Singapore 556 2 Nhật Bản 538 3 Estonia 534 4 Đài Loan 532 5 Phần Lan 531 6 Ma Cao 529 7 Canada 528 8 Việt Nam 525 9 Hồng Kông 523 10 Trung Quốc 518 11 Hàn Quốc 516 12 New Zealand 513 13 Slovenia 513 14 Úc 510 15 Anh Quốc 509 16 Đức 509 17 Hà Lan 509 18 Thụy Sĩ 506 19 Ireland 503 20 Bỉ 502 21 Đan Mạch 502 22 Ba Lan 501 23 Bồ Đào Nha 501 24 Na Uy 498 25 Hoa Kỳ 496 26 Áo 495 27 Pháp 495 28 Thụy Điển 493 29 Cộng hòa Séc 493 30 Tây Ban Nha 493 31 Latvia 490 32 Nga 487 33 Luxembourg 483 34 Ý 481 35 Hungary 477 36 Litva 475 37 Croatia 475 38 Iceland 473 39 Israel 467 40 Malta 465 41 Slovakia 461 42 Kazakhstan 456 43 Hy Lạp 455 44 Chile 447 45 Bulgaria 446 46 Malaysia 443 47 Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất 437 48 Uruguay 435 49 România 435 50 Síp 433 51 Argentina 432 52 Moldova 428 53 Albania 427 54 Thổ Nhĩ Kỳ 425 55 Trinidad và Tobago 425 56 Thái Lan 421 57 Costa Rica 420 58 Qatar 418 59 Colombia 416 60 México 404 61 Montenegro 411 62 Gruzia 411 63 Jordan 409 64 Indonesia 403 65 Brasil 401 66 Peru 397 67 Liban 386 68 Tunisia 386 69 Macedonia 384 70 Kosovo 378 71 Algérie 376 72 Cộng hòa Dominica 332 1 Singapore 535 2 Hồng Kông 527 3 Canada 527 4 Phần Lan 526 5 Ireland 521 6 Estonia 519 7 Hàn Quốc 517 8 Nhật Bản 516 9 Na Uy 513 10 New Zealand 509 11 Đức 509 12 Ma Cao 509 13 Ba Lan 506 14 Slovenia 505 15 Hà Lan 503 16 Úc 503 17 Thụy Điển 500 18 Đan Mạch 500 19 Pháp 499 20 Bỉ 499 21 Bồ Đào Nha 498 22 Anh Quốc 498 23 Đài Loan 497 24 Hoa Kỳ 497 25 Tây Ban Nha 496 26 Nga 495 27 Trung Quốc 494 28 Thụy Sĩ 492 29 Latvia 488 30 Cộng hòa Séc 487 31 Croatia 487 32 Việt Nam 487 33 Áo 485 34 Ý 485 35 Iceland 482 36 Luxembourg 481 37 Israel 479 38 Litva 472 39 Hungary 470 40 Hy Lạp 467 41 Chile 459 42 Slovakia 453 43 Malta 447 44 Síp 443 45 Uruguay 437 46 România 434 47 Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất 434 48 Bulgaria 432 49 Malaysia 431 50 Thổ Nhĩ Kỳ 428 51 Costa Rica 427 52 Trinidad và Tobago 427 53 Kazakhstan 427 54 Montenegro 427 55 Argentina 425 56 Colombia 425 57 México 423 58 Moldova 416 59 Thái Lan 409 60 Jordan 408 61 Brasil 407 62 Albania 405 63 Qatar 402 64 Gruzia 401 65 Peru 398 66 Indonesia 397 67 Tunisia 361 68 Cộng hòa Dominica 358 69 Macedonia 352 70 Algérie 350 71 Kosovo 347 72 Liban 347Việt Nam tham gia PISA[sửa | sửa mã nguồn]Viêt Nam bắt đầu tham gia PISA từ đợt đánh giá năm 2012, theo mẫu học sinh được lấy trong cả nước. Việc chọn mẫu rất nghiêm ngặt, theo phương pháp chọn ngẫu nhiên nhờ phần mềm do ban quản lý PISA của OECD cung cấp và giám sát. Kết quả của học sinh Việt Nam qua 2 lần tham gia chương trình PISA được biểu diễn ở bảng sau (trong các ô số trước là thứ hạng, số sau là điểm số): Năm Toán Khoa học Đọc hiểu 2012 17 ↔ 511 8 ↔ 528 19 ↔ 508 2015 22 ↔ 495 8 ↔ 525 32 ↔ 487 Để hiểu rõ hơn kết quả trên, có thể xem điểm trung bình các lĩnh vực đánh giá của khối các nước OECD ở bảng sau: Năm Toán Khoa học Đọc hiểu 2012 494 501 496 2015 490 493 493 Như vậy, kết quả kiểm tra của Việt Nam ở cả ba lĩnh vực được đánh giá, trừ lĩnh vực đọc hiểu trong kỳ 2015, đều cao hơn giá trị trung bình của các nước OECD. Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]Lâm Quang Thiệp (2011). Đo lường trong Giáo dục – Lý thuyết và ứng dụng. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội |