Phần tích bài Giấc mơ anh lái đò

 

 

Đoạn kết cũng là một tiêu chí để thẩm định giá trị nghệ thuật một bài thơ.

Có những đội bóng, từ khi phát bóng cho đến lúc qua phần đất đối phương ở khoảng giữa sân cầu thủ chơi rất hay. Nhưng hễ tiến vào khu vực 16 mét 50 thì cầu thủ lạng quạng, hoặc để mất bóng, hoặc đá ra ngoài, hoặc đá vào cầu môn nhưng quá nhẹ, thủ môn bắt được một cách dễ dàng. Nói tóm lại, không có khả năng phối hợp để cuối cùng sút dứt điểm tung lưới đối phương, ghi bàn thắng.

Với thơ cũng vậy. Có những bài thơ có đoạn kết hay, vừa xác nhận thông điệp của tác giả một cách trang trọng, khéo léo vừa tạo ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Nhưng cũng có những bài thơ có đoạn kết nhạt nhẽo, bình thường, đôi khi còn “xa lạ” hoặc “ngược dòng” với tứ thơ.

Phần tích bài Giấc mơ anh lái đò

Dưới đây là đọan thơ có 2 câu kết của bài Giấc Mơ Anh Lái Đò của Nguyễn Bính:

            Nhà giai thuê chín chiếc đò đón dâu
            Nhà gái ăn chín nghìn cau
            Tiền cheo, tiền cưới chừng đâu chín nghìn
            Lang thang tôi dạm bán thuyền
            Có người giả chín quan tiền, lại thôi.


Tôi không tin là trong thực tế, con số chín (9) hoàn toàn phù hợp với số lượng những “thứ” mà ông nói đến trong bài thơ. Đúng là ông “phịa”; nhưng ông “phịa” khéo quá, “cao tay ấn” quá, nên người đọc, theo dòng cảm xúc của mình, đâu cần biết “có đúng là chín chiếc đò đón dâu, có đúng là chín nghìn cau hay chín nghìn tiền cheo, tiền cưới hay không, mà chỉ thấy cái khoảng cách giàu nghèo giữa anh lái đò và tình địch hiện ra một cách rõ ràng và cay đắng, để rồi cái cảm giác bàng hoàng đau đớn về mối tình vô vọng của anh lái đò đã như một dòng thác đổ xuống, tràn ngập tâm hồn. Ở đây thủ pháp “bày tỏ, không kể lại” được phối hợp với phép điệp ngữ (chín) một cách tài tình đã dẫn đến 2 câu kết thật tuyệt vời.

Phạm Đức Nhì

 

 

 

Phần tích bài Giấc mơ anh lái đò

Hay anh lái đò năm xưa, khi giấc mộng vinh quy không thành hiệnthực, anh cũng đành phải ôm hận lỡ làng, để người thương của mình đi lấychồng giàu sang: “Đồn rằng đám cưới cô to - Nhà trai thuê chín chiếc đò đóndâu” (Giấc mơ anh lái đò), còn mình thì lang thang đi dạm bán thuyền, thứcủa cải quý giá nhất của mình, dù chẳng để làm gì nữa…Năm 1932, Nguyễn Bính theo anh trai cả là Nguyễn Mạnh Phát (tứcTrúc Đường) ra Hà Nội. Trúc Đường cũng dạy thêm tiếng Pháp và truyền đạtvăn học Pháp cho Nguyễn Bính, nghĩa là ở Bính, có sự hòa quyện rất nhuyễngiữa vốn thơ dân tộc và dòng thơ hiện đại Pháp. Đồng thời, Trúc Đường cũngđể Bính tự do đi theo con đường nghệ thuật, tiếp tục theo đuổi những ước mơ,khát vọng của cuộc đời mình. Đương nhiên trong đó, có cả giấc mộng côngdanh! Ở đâu đó chốn thị thành, in hình bóng một nhà thơ giàu tâm huyết, giàuniềm tin ở tương lai:Bóng một nhà thơ đầy nguyện vọngGiàu lòng tin tưởng bước tương laiNhà thơ còn trẻ lắm anh ơiChưa xã giao quen chưa trải đờiSong le trường học thiên nhiên sẽĐào luyện nhà thơ nên một người(Lá thư về Bắc)Trong thơ Nguyễn Bính, chúng ta rất dễ gặp những nhà vua, hoànghậu, quan, công chúa, cung tần mỹ nữ và quan Trạng, quan Thám, sĩ tử, anhkhóa, thư sinh,… Những hình ảnh liên quan đến khát vọng công danh sựnghiệp xuất hiện trong nhiều bài, như Thời trước, Quan Trạng, Giấc mơ anhlái đò, Truyện cổ tích, Bóng bướm, Nhà tôi, Xóm Ngự viên,…Trong đó, sớm nhất là trong bài Thời trước, viết năm 1936. Ở chốnthôn quê, chàng trai mơ ước một gia đình đầm ấm, vợ tần tảo sớm hôm,79 chồng dùi mài kinh sử để mong ngày được vinh quy bái tổ “Chồng tôi cưỡingựa vinh quy - Hai bên có lính hầu đi dẹp đường - Tôi ra đứng tận gốc bàng- Chồng tôi cưỡi ngựa cả làng ra xem”. Bài thơ gợi lại câu chuyện cảm độngtrong vở chèo Lưu Bình – Dương Lễ, nàng Châu Long đã thay chồng độngviên, khuyên răn và hết mực chăm sóc để Lưu Bình chú tâm học hành, đỗ đạtvinh hiển.Giấc mơ quan Trạng, thành đạt trong công danh sự nghiệp gắn liền vớinhững mối tình quê:Mong sao sự nghiệp chóng thànhÁo anh đã có em anh may giùm(Áo anh)Và những trắc trở, lỡ làng trong chuyện tình duyên, dường như cànglàm cho khát vọng công danh trở nên day dứt hơn:Từ ngày cô chửa thành hônTừ ngày anh khóa vẫn còn hàn viThế rồi vua mở khoa thiThế rồi quan Trạng vinh quy qua làng…(Quan Trạng)Trong giấc mộng thành danh của mình, con người nho sinh NguyễnBính luôn khao khát được công chúa cài trâm, thả tú cầu:Lòng Trạng lâng lâng màu phú quýQuả cầu nho nhỏ bói lương duyênTay ai ấy nhỉ gieo cầu đấyNghiêng cả mùa xuân Trạng ngước nhìn(Xóm Ngự Viên)Rồi giấc mộng ấy hóa thành cánh bướm vàng trong câu chuyện cổ tíchthật nên thơ: “Em ạ, ngày xưa vua nước Bướm -Kén nhân tài mở Điệp lang80 khoa - Vua không lấy Trạng vua thề thế - Con bướm vàng tuyền đậu ThámHoa” (Truyện cổ tích). Xét trong lối thi cử xưa thì đậu Thám Hoa là ở bậchàng cuối trong ba vị trí danh dự của Tam khôi, sau Trạng Nguyên và Bảngnhãn. Dù sao, đây cũng là vị trí đáng mơ ước của những nho sinh, sĩ tử.Chúng tôi đặc biệt chú ý đến biểu tượng “quan Trạng” trong thơNguyễn Bính. Theo kết quả khảo sát, trong 7 tập thơ trước Cách mạng ThángTám, từ khóa “quan Trạng” xuất hiện 13 lần, so với từ khóa “vua” (11 lần),“quan” (2 lần), “Thám Hoa” (2 lần), “công chúa” (2 lần),…Nhận xét về biểu tượng trong đời sống tinh thần con người, có ý kiếnđại ý rằng, nói chúng ta sống trong một thế giới biểu tượng thì vẫn chưa đủmà phải nói một thế giới biểu tượng sống trong chúng ta.Để diễn đạt một ý niệm trừu tượng nào đó người ta thường dùng mộthình ảnh cụ thể và điều đó đã làm xuất hiện biểu tượng. Trong quá trình sángtạo nghệ thuật, biểu tượng không chỉ thay thế cái được diễn đạt mà còn thểhiện tư tưởng, tình cảm, quan niệm thẩm mĩ của nhà thơ. Theo đó, một sự vật,hiện tượng sẽ có khả năng biểu hiện tinh tế, phong phú những cảm nhận củacon người về cuộc sống, về xã hội. “Văn học phản ánh cuộc sống bằng hìnhtượng nghệ thuật…Nhưng hình tượng nghệ thuật cũng là hiện tượng đầy tínhước lệ. Bằng hình tượng, nghệ thuật sáng tạo ra một thế giới hoàn toàn mangtính biểu tượng. Cho nên trong nghĩa rộng, biểu tượng là đặc trưng phản ánhcuộc sống bằng hình tượng của văn học nghệ thuật” [12;24].Thời phong kiến, quan Trạng là một nho sinh dành học vị cao nhất vềkhoa cử và được vua ban cho cờ biển vinh quy, được trọng dụng làm quan,hưởng cuộc đời vinh hoa phú quý, cuộc sống cao sang. Giấc mơ quan Trạng,khát vọng vinh hiển, đỗ đạt được coi là một trong những nét đẹp của văn hóaViệt Nam. Vì lẽ đó, con người đỗ đạt, làm quan Trạng cũng là niềm tự hàocủa cả gia đình, dòng họ, làng xóm.81 Như trên đã nói, trong thơ Nguyễn Bính, chúng ta có thể bắt gặp nhữngnhà vua, hoàng hậu, quan Trạng, quan Thám, sĩ tử, anh khóa,… Và trongnhững hình ảnh này được lặp đi lặp lại nhiều lần, “quan Trạng” chính là biểutượng của sự thành đạt, vinh hiển. Nói cách khác, là biểu tượng cho khát vọngcông danh cháy bỏng của chàng nho sinh.Nguyễn Bính lúc thì nhớ chuyện vua quan, khoa cử thời xưa: “Em ạ!Ngày xưa vua nước Bướm - Kén nhân tài mở Điệp lang khoa” (Truyện cổtích), “Ngày xưa nước lạnh tê tê - Đò đông sĩ tử đi về kinh đô” (Con nhà nhocũ), lúc thì coi nó là chuyện của hiện tại, đang diễn ra trong cuộc sống hàngngày: “Quan Trạng đi bốn lọng vàng - Cờ thêu tám lá qua làng TrangNghiêm” (Quan Trạng), “Mới rồi mãn khóa thi hương - Ngựa điều võng tíaqua đường những ai” (Bóng bướm), “Rõ ràng quan Trạng đương trai - Vuacho chạy ngựa ba ngày xem hoa” (Con nhà nho cũ).Từ thực tế ấy, hình ảnh quan Trạng còn là mơ ước trong tương lai củabao nhiêu gã thư sinh nữa: “Từng gã thư sinh biếng chải đầu - Một mình mơước chuyện mai sau - Lên kinh thi đỗ làm quan Trạng - Công chúa cài châmthả tú cầu” (Thơ xuân).Đặc biệt, chúng tôi nhận thấy: nếu như trong các bài Thời trước, QuanTrạng, Giấc mơ anh lái đò, Bóng bướm, Thơ xuân, mạch tâm trạng củanhân vật trữ tình khá thuần nhất, một chiều, thì trong các bài Truyện cổ tích,Xóm Ngự Viên, Con nhà nho cũ, mạch tâm trạng ấy lại không thuần nhất, cósự đan xen giữa quá khứ, hiện tại và cả tương lai, giữa thực và ảo. Điều nàycho thấy sự bất ổn, băn khoăn, lo lắng trong lòng nhân vật trữ tình.Ví dụ, trong bài Con nhà nho cũ, Nguyễn Bính kể về chuyện “Ngàyxưa nước lạnh tê tê - Đò đông sĩ tử đi về kinh đô”, rồi lại chuyển sang hiện tại“Rõ ràng quan Trạng đương trai”. Và ngay trong hiện tại, cũng xuất hiện sựmâu thuẫn:82 Bây giờ thời thế biến thiênNhà vua không lấy Trạng nguyên nữa rồiMực tàu giấy bản là thôiNước non đã hết những người áo xanhNhận định trên cũng thể hiện rõ trong bài Truyện cổ tích. Nhà thơ kểcâu chuyện ngày xưa ở xứ xở nước bướm, nhà vua mở hội thi chọn nhân tài,rồi gả con gái yêu cho Thám hoa, nuông chiều cho đi chơi vườn hoa. Hai vợchồng bị lạc, rồi được gặp bà tiên, và bà tiên cho ăn bánh, cho ngủ nhờ.Nhưng kết cục lại là ở hiện tại:Ăn xong thoắt chốc liền thay lốtChồng hóa làm anh, vợ hóa emỞ bài Xóm Ngự Viên, mạch tâm trạng của nhân vật trữ tình cũng có sựđan xen giữa quá khứ - hiện tại. Thời thế đã đổi thay, để lại trong lòng ngườimột khoảng vắng đến bâng khuâng:Có phải ngày xưa vườn Ngự uyểnNgự Viên ngày trước không còn nữaGiờ chỉ còn tên xóm Ngự ViênKhoa cử bỏ rồi thôi hết Trạng!Bên cạnh những biểu tượng trong thơ Nguyễn Bính như mùa xuân,người chị, cánh bướm mà chúng tôi chưa có dịp phân tích một cách toàn diệntrong luận văn, có thể khẳng định, “quan Trạng” là một biểu tượng quantrọng. Nó phản ánh ước mơ, nguyện vọng day dứt cả cuộc đời nhà thơ. Cũngcó thể, mơ ước chuyện “quan Trạng”, tìm về thời trước là một cách đểNguyễn Bính trốn chạy cuộc sống có tính “ngã ba đường” ở hiện tại.Như vậy, có thể thấy, chuyện vua quan, thi cử, đỗ đạt đã trở thành mộtám ảnh không nguôi đối với Nguyễn Bính. Nó là ước mơ, lý tưởng, là khátkhao cả cuộc đời của chàng nho sinh. Từ thôn quê ra thành thị, ám ảnh này83 chưa từng bị lãng quên, thậm chí còn quặn lên đau đớn, xót xa khi NguyễnBính nhận ra thực tại của mình.4.2. Bi kịch nhầm thờiNói đến chuyện khát vọng và quyết tâm làm nên sự nghiệp, công danhngười ta hay kể về câu chuyện chàng trai trẻ Tư Mã Tương Như, còn gọi làTrường Khanh đề chữ lên thành cầu, và tự hứa với lòng mình, không làm nênsự nghiệp, không trở lại cầu này. Cái khát vọng công danh ấy trong nhân vậttrữ tình của Nguyễn Bính, chúng tôi cho là đủ lớn để có thể vượt qua nhữngkhó khăn trong cuộc sống, quyết tâm đạt được ước mơ của mình. Tuy nhiên,một thực tế là cuộc sống lúc bấy giờ, cứ như theo cái cách miêu tả của TrầnTế Xương thì:Một đàn rách rưới con như bốBa chữ nghêu ngao vợ chán chồngCòn bạc, còn tiền, còn đệ tửHết tiền, hết bạc, hết ông tôiVà chuyện học hành, thi cử:Nào có ra gì cái chữ nhoÔng nghè, ông cống cũng nằm coSau bao năm tha hương, điều Nguyễn Bính “được” nhiều nhất, bêncạnh nỗi buồn, day dứt xa quê, có lẽ chính là sự từng trải và hiểu đời. Và mỗimùa xuân trôi qua, người khách thiên hạ ấy, vẫn hai bàn tay trắng, một túithơ, với nỗi sầu thiên cổ:Đầy vơi tâm sự cùng ai tỏMộng lạnh đêm xuân chiếu lạnh giườngQuê nhà gối chiếc thôi rồi kẻChia nửa vầng trăng với dặm trường…84 Cái lý tưởng cao đẹp mà chàng trai trẻ đã hy vọng lúc gia nhập cuộcsống phồn hoa không còn nữa. Thực tại đã gửi lại bằng những xô bồ, giả dối,những trái ngang, kệch cỡm:Mụ vợ bắc nam người tứ xứAnh chồng tay trắng lẫn tay đenĐổi thay tình nghĩa như cơm bữa(Xóm Ngự Viên)Trọc phú ti toe bàn thế sựĐiếm già tấp tểnh nói văn chươngVà những xót xa, thất vọng ê chề:Tay trắng bạn bè đều lánh mặtSa cơ, thân thích cũng coi thường(Xuân vẫn tha hương)Bài thơ Con nhà nho cũ được Nguyễn Bính viết vào năm 1943, gửitặng cho Bùi Hạnh Cẩn. Trong đó, nhà thơ tâm sự chua chát cái giấc mộngcông danh, sự nghiệp bút nghiên của mình, với hình ảnh thầy khóa, sĩ tử hồhởi đèn sách lên kinh ứng thí, mong chiếm bảng rồng, được trở thành Trạngnguyên. Cái chua chát ở đây chính là thực tế phũ phàng, là sự vỡ mộng:Bây giờ thời thế biến thiênNhà vua không lấy Trạng nguyên nữa rồiMực tàu giấy bản là thôiNước non đã hết những người áo xanhLỡ duyên búi tóc củ hànhTrường thi Nam Định biến thành trường bayChúng ta đều biết, chế độ khoa cử ở nước ta chính thức chấm dứt vàothời vua Khải Định (1919), lúc ấy Nguyễn Bính mới 1 tuổi! Vậy mà, cái giấcmộng quan Trạng cứ trở đi trở lại, ám ảnh cả cuộc đời thi nhân. Thế mới biết,85 cái “gốc rễ” của dòng họ, cái khao khát của gia đình, và cái mộng tưởng củacá nhân lớn lao và sâu sắc đến nhường nào. Cái khoảng cách giữa lý tưởng vàhiện thực đã trở nên quá xa vời.Chợt nhớ hình ảnh ông đồ trong bài thơ cùng tên của Vũ Đình Liên.Cái ngày chữ Nho được trọng vọng, thì cứ mỗi độ xuân về, hoa đào nở, hìnhảnh ông đồ già bày mực tàu giấy đỏ bên hè phố, với những nét chữ “nhưphượng múa rồng bay” làm say mê bao người đã trở nên thân quen, và tưởngnhư không tài nào mất đi được. Vậy nhưng, nền Nho học đã đến thời tàn, sựdu nhập và lan tỏa của văn minh phương Tây đã đẩy những người của thờiNho học vào vị thế của kẻ ngoài cuộc, với một mặc cảm lạc điệu, cùng tâmtrạng bùi ngùi, nuối tiếc:Năm nay đào lại nởKhông thấy ông đồ xưaNhững người muôn năm cũHồn ở đâu bây giờ?(Ông đồ)Quay trở lại giấc mộng quan Trạng của thi nhân, mới thấy hình ảnhnhững sĩ tử, anh khóa cũng đang tồn tại như một thực thể cô đơn, lạc lõng vàđầy mặc cảm, rất đáng thương! Giấc mộng quan Trạng của Nguyễn Bínhđúng hơn là gắn liền với thời trước, với những hội chèo thôn Đoài, làng Đặng,với cuộc sống thanh bình chốn thôn quê. Dường như chỉ ở đó, nơi “sánggiăng chia nửa vườn chè”, giấc mộng này mới được thêu dệt, có cớ để tồn tạivà trở nên đẹp đẽ. Hình ảnh quan Trạng khi ấy trở thành niềm khát khao củabao nhiêu sĩ tử, là niềm tự hào của làng quê, là vẻ đẹp văn hóa truyền thốngdân tộc. Nhưng trong hoàn cảnh:Khoa cử bỏ rồi thôi hết Trạng!Giời đem hoa cỏ trả vườn tiên(Xóm Ngự viên)86 Và ngay cả việc chuyện thi cử, chọn nhân tài cũng phải đưa vào tronggiấc mơ, trong truyện cổ tích thì đúng là con người “quê mùa” Nguyễn Bínhđã sinh nhầm thời, nên khát vọng đỗ đạt làm quan, làm nên sự nghiệp lớncũng theo đó mà tan tành theo mây khói. Vận vào đúng như hai câu thơ củaĐặng Dung: “Thời lai đồ điếu thành công dị. Sự khứ anh hùng ẩm hận đa”(Gặp thời kẻ tầm thường cũng thành công. Lỡ thời anh hùng đành nuốt hận).Trong bài thơ Bắt gặp mùa thu viết năm 1945 – năm đánh dấu mộtchặng đường thơ, một chặng đường đời, cái tôi trữ tình Nguyễn Bính nhìnnhận lại những gì đã qua, cay đắng nhận thấy mọi thứ quanh mình chỉ là hãohuyền, dang dở. Đó có thể coi là một lời tổng kết cuộc đời của mình trongnhững năm tháng đã qua:Một chút công danh rất hão huyềnVà dang dở nữa cuộc tình duyênLại nhớ câu chuyện về chàng Lư Sinh trong tích xưa. Lễ xướng danhvừa dứt, chàng muốn nhảy lên nhưng cố giữ vẻ khiêm tốn, đi giữa đám đông,chàng tỏ vẻ thương hại hàng ngàn sĩ tử tiu nghỉu… Chàng vừa nghe xướngdanh: tên chàng, quê chàng, chàng đỗ Tiến sĩ. Ông nghè! Cái buổi nhận cờbiển mới lộng lẫy làm sao! Hai bên phố, biết bao nhiêu mĩ nữ vàng đeo đầyngười mỉm cười với tân khoa. Quan tể tướng, sau khi đọc kỹ gia phả, lý lịchcủa chàng, quyết định gả tiểu thư cho chàng. Chàng được phong chức, chàngcó dinh thự riêng, rồi chàng có tỳ thiếp. Xung quanh chàng, vàng son chói lọi,những bức trướng hồng điều bay rực rỡ, lay động biết bao lời chúc tụng đẹpđẽ nhất. Bỗng nhiên, một hồi trống báo ngọ, Lư Sinh bừng tỉnh dậy. Chàngngơ ngác nhìn xung quanh, rồi nhớ lại, hóa ra một giấc mơ. Chàng nhớ lại,sau khi hỏng kỳ thi hương, chàng chán nản, lang thang khắp nơi. Tiền hết, trờinóng bức, chàng vào quán ăn, bác quán đang nấu nồi kê. Chàng mệt quá, lănra chõng đặt ở góc nhà và ngủ lúc nào không biết. Bác quán thấy chàng tỉnh87 dậy bảo: “Chú học trò đánh một giấc ngon nhỉ, ngủ nữa đi, nồi kê chưa chínđâu”. Chàng ậm ừ, nghĩ mà buồn cho thân phận mình. Trải bao phú quý vinhhoa, con cháu đầy đàn mà nồi kê vẫn chưa chín.Cổ thi có câu “Trăm năm một giấc kê vàng”. Còn cổ nhân thì nói “Chỉcó ai đại thức mới có đại mộng”. Nghe ra như nói về chàng thôn dân - nhosinh Nguyễn Bính vậy! Cái tôi ấy suốt đời vương vấn giấc mộng quan Trạng,giấc mộng được nâng niu, nuôi dưỡng bằng truyền thống của gia đình, dòngtộc và khát vọng mãnh liệt của cá nhân. Dù sau này trên bước đường thahương có nếm trải biết bao cơ cực của cuộc sống thực tại, giấc mộng lớn ấyvẫn không nguôi thao thức, dằn vặt chàng nho sinh đáng thương. Tấm bi kịchxót xa ở đây chính là con người kẻ sĩ thì thuộc về “thời trước”, nhưng lại sinhra vào thời này. Sự bấu víu duy nhất và lớn nhất chính là một giấc mơ:“Nhưng mộng mà thôi! Mộng mất thôi!”.88 PHẦN KẾT LUẬNChúng tôi cho rằng, sẽ thật khó hình dung bộ mặt của phong trào Thơmới lãng mạn (1932 – 1945) nếu vắng bóng tên tuổi Nguyễn Bính. Suốt hànhtrình một đời thơ của mình, Nguyễn Bính đã sáng tạo nên những bài thơ chứađầy tình yêu thương, đầy cảm thông, chia sẻ và cũng đầy khổ đau, bất hạnh.Thơ Nguyễn Bính dung dị, dân dã, đằm thắm và quyến rũ. Nó có sức ám ảnh,đeo bám lạ thường. Nó chạm tới phần sâu thẳm nhất trong tâm hồn mỗi chúngta – tình yêu quê hương đất nước! “Những ai bị mất, những ai muốn hồitưởng hồn quê, chỉ cần nhớ vài câu lục bát của ông, sẽ trở nên như có phépthần, thoắt một cái đã trở về làng, nơi mình cắt rốn chôn rau hàng thế kỷ”[45;126]. Đó là tài năng của Nguyễn Bính!Tìm hiểu về lý tưởng và hiện thực trong thơ Nguyễn Bính trước cáchmạng tháng Tám, chúng tôi đi đến những kết luận khái quát như sau:1. Thơ mới lãng mạn (1932 – 1945) là một dấu mốc quan trọng trongtiến trình vận động và phát triển của dòng chảy thể loại thơ Việt Nam. Nó rađời giữa không khí ngột ngạt của thời đại, mang theo quan niệm “cái tôi cánhân”. Và cái tôi ấy – khi mới ra đời đã gồng mình lên để khẳng định, để yêuthương, để mơ mộng, và cũng nhanh chóng rơi ngay vào tình trạng cô đơn, bơvơ, không lối thoát. Trong hoàn cảnh “ngã ba đường”, mỗi nhà thơ đều cốgắng tìm cho mình một con đường thoát ly cuộc sống riêng. Sự mâu thuẫn, vachạm giữa lý tưởng và hiện thực rõ ràng không phải chỉ trong chuyện tình yêumà cũng là câu chuyện của nhiều cảnh đời. Mỗi người trong cuộc đời cũ, kểcả các nhà Thơ mới, đều phải chịu đựng ít nhiều bi kịch của sự dang dở, dangdở trong công danh sự nghiệp, dang dở trong tình yêu, dang dở trong nhiềumối quan hệ cuộc đời.89