So sánh tế bào lympho b và t năm 2024

Tế bào B, còn được gọi là tế bào lympho B, là một loại tế bào bạch huyết của phân nhóm tế bào lympho. Chúng hoạt động trong thành phần miễn dịch dịch thể của hệ miễn dịch, bằng cách tiết ra các kháng thể. Ngoài ra, tế bào B còn có thể trình diện kháng nguyên và tiết ra cytokine. Ở động vật có vú, tế bào B trưởng thành ở trong tủy xương. Ở chim, tế bào B trưởng thành trong túi Fabricius, một cơ quan bạch huyết.

Không giống như hai loại tế bào lympho khác như tế bào T và tế bào NK, tế bào B có thụ thể tế bào B (BCRs) trên màng. BCR cho phép tế bào B mang vai trò là một kháng thể, có chức năng gắn với một kháng nguyên cụ thể. Tế bào lympho B và lympho T đều thuộc loại miễn dịch đặc hiệu.

Tế bào lympho là một loại tế bào bạch cầu có tầm quan trọng cơ bản trong hệ thống miễn dịch vì tế bào lympho là tế bào xác định tính đặc hiệu của phản ứng miễn dịch đối với các vi sinh vật truyền nhiễm và các chất lạ khác. Ở người trưởng thành tế bào lympho chiếm khoảng 20 đến 40% tổng số tế bào bạch cầu.

Các tế bào lympho được tìm thấy trong tuần hoàn và cũng tập trung ở các cơ quan và mô bạch huyết trung tâm, chẳng hạn như lá lách, amidan và các hạch bạch huyết, nơi có khả năng xảy ra phản ứng miễn dịch ban đầu.

Đặc điểm cấu tạo của tế bào Lympho

Tế bào lympho không thể nhìn thấy bằng mắt thường. Khi nhuộm màu và kiểm tra dưới kính hiển vi, chúng có hình tròn và lớn hơn hồng cầu. Chúng được cấu tạo gần như hoàn toàn từ một hạt nhân màu tím sẫm. Chất lỏng giống như thạch xung quanh (gọi là tế bào chất) có màu hồng nhạt hơn.

Chức năng của tế bào Lympho

Giống như tất cả các tế bào máu, tế bào lympho bắt đầu cuộc hành trình sống của chúng trong tủy xương. Đây là mô mềm, xốp nằm ở trung tâm xương.

Tế bào lympho di chuyển khắp cơ thể, thực hiện nhiều chức năng khác nhau trong hệ bạch huyết và tuần hoàn.

Là một phần quan trọng trong hệ thống miễn dịch của cơ thể, mạng lưới mạch máu, cơ quan và mô mở này phối hợp với nhau để bảo vệ cơ thể khỏi những tác nhân gây bệnh từ bên ngoài, duy trì mức chất lỏng trong cơ thể và loại bỏ chất thải tế bào.

Tế bào lympho di chuyển khắp hệ thống bạch huyết trong một chất lỏng gọi là bạch huyết. Dọc theo mạng lưới mạch bạch huyết là các cụm cơ quan nhỏ hình hạt đậu gọi là hạch bạch huyết.

Các hạch bạch huyết có nhiệm vụ lọc bạch huyết để vi khuẩn, vi rút, ký sinh trùng, nấm và những tác nhân lạ xâm nhập khác có thể bị phân lập và vô hiệu hóa bởi các tế bào lympho.

Các hạch bạch huyết chứa nồng độ tế bào lympho cao nhất.

Tế bào lympho cũng được tìm thấy trong các mô và cơ quan bạch huyết trên khắp cơ thể, bao gồm lá lách, amidan và niêm mạc đường thở của bạn.

Phân loại và chức năng của các tế bào lympho

Hai loại tế bào lympho chính đảm nhiệm các chức năng khác nhau trong hệ thống miễn dịch để bảo vệ cơ thể khỏi bị nhiễm trùng, đó là:

  • Tế bào lympho B (tế bào B): tạo ra kháng thể chống lại các tác nhân gây bệnh xâm nhập vào cơ thể (vi rút, vi khuẩn, nấm...)
  • Tế bào lympho T (tế bào T): kiểm soát phản ứng của hệ thống miễn dịch của cơ thể bạn và trực tiếp tấn công và tiêu diệt các tế bào bị nhiễm bệnh và tế bào khối u.

Cả hai đều có nguồn gốc từ tế bào gốc trong tủy xương và ban đầu có hình dáng giống nhau.

Một số tế bào lympho di chuyển đến tuyến ức, nơi chúng trưởng thành thành tế bào T; một số khác vẫn còn trong tủy xương, nơi mà ở người chúng phát triển thành tế bào B.

Hầu hết các tế bào lympho đều có thời gian tồn tại ngắn, với tuổi thọ trung bình từ một tuần đến vài tháng, nhưng một số ít sống trong nhiều năm, cung cấp một nhóm tế bào T và B có tuổi thọ cao.

Những tế bào này hình thành “bộ nhớ ” miễn dịch, một phản ứng ghi nhớ lại đặc điểm của các kháng nguyên và yếu tố lạ gây bệnh trong lần đối mặt đầu tiên, sau đó sẽ có phản ứng miễn dịch nhanh chóng và mạnh mẽ hơn đối với lần gặp thứ hai với cùng một kháng nguyên đã gặp trước đó.

Thông qua các phân tử thụ thể trên bề mặt, tế bào lympho có thể liên kết kháng nguyên (chất lạ hoặc vi sinh vật mà vật chủ nhận ra là “không phải của chính mình”) và giúp loại bỏ chúng khỏi cơ thể.

So sánh tế bào lympho b và t năm 2024

Mỗi tế bào lympho mang các thụ thể liên kết với một kháng nguyên cụ thể. Khả năng đáp ứng với hầu như bất kỳ kháng nguyên nào đều xuất phát từ số lượng lớn các quần thể tế bào lympho có trong cơ thể, mỗi quần thể có một thụ thể có khả năng nhận biết một kháng nguyên duy nhất.

Các phân nhóm tế bào B và tế bào T góp phần vào cả hệ thống miễn dịch bẩm sinh (phản ứng miễn dịch tổng quát đã có sẵn ngay từ khi sinh ra) và hệ thống miễn dịch thích ứng (phản ứng miễn dịch đặc hiệu với các tác nhận gây bệnh, được hình thành bất cứ khi nào cơ thể tiếp xúc với kháng nguyên bên ngoài).

Sau khi được kích thích bằng cách liên kết với một kháng nguyên lạ, chẳng hạn như một thành phần của vi khuẩn hoặc vi rút, tế bào lympho sẽ nhân lên thành một bản sao của các tế bào giống hệt nhau.

Một số tế bào B nhân bản biệt hóa thànhtế bào plasma tạo ra phân tử kháng thể. Những kháng thể này được mô phỏng chặt chẽ theo các thụ thể của tế bào B tiền thân, và sau khi được giải phóng vào máu và bạch huyết, chúng liên kết với kháng nguyên đích và bắt đầu quá trình trung hòa hoặc phá hủy nó.

Việc sản xuất kháng thể tiếp tục trong vài ngày hoặc vài tháng cho đến khi kháng nguyên bị loại bỏ. Các tế bào B kháctế bào B trí nhớ, được kích thích nhân lên nhưng không biệt hóa thành tế bào plasma ; chúng cung cấp cho hệ thống miễn dịch trí nhớ lâu dài.

Ở tuyến ức, tế bào T nhân lên và biệt hóa thànhngười trợ giúp, quy định, hoặc tế bào T gây độc tế bào hoặc trở thành tế bào T ghi nhớ. Sau đó chúng được phân bổ vào các mô ngoại vi hoặc lưu thông trong máu hoặc hệ bạch huyết.

Sau khi được kích thích bởi kháng nguyên thích hợp, các tế bào T hỗ trợ sẽ tiết ra các chất truyền tin hóa học gọi là cytokine, kích thích sự biệt hóa của tế bào B thành tế bào plasma, từ đó thúc đẩy sản xuất kháng thể.

Các tế bào T điều tiết hoạt động để kiểm soát các phản ứng miễn dịch, do đó có tên như vậy. Tế bào T gây độc tế bào, được kích hoạt bởi nhiều cytokine khác nhau, liên kết và tiêu diệt các tế bào bị nhiễm bệnh và tế bào ung thư.

Tế bào Lympho B

Tế bào lympho B có liên quan đến khả năng miễn dịch thích ứng, dựa trên kháng thể.

Tế bào B không tự mình tiêu diệt những kẻ xâm lược nước ngoài. Thay vào đó, chúng giải phóng các kháng thể gắn vào kháng nguyên của kẻ xâm lược. Bằng cách đó, nó vô hiệu hóa kẻ xâm lược và/hoặc "gắn thẻ" nó để các tế bào miễn dịch khác tiêu diệt.

Tế bào B được sản xuất trong tủy xương, nơi chúng trưởng thành và chuyên biệt hóa thành các loại tế bào B khác nhau. Sau đó, chúng di chuyển đến lá lách và các hạch bạch huyết để giúp chống nhiễm trùng.

Có hai loại tế bào B chính, mỗi loại có một chức năng cụ thể:

  • Tế bào plasma tạo ra một lượng lớn kháng thể nhắm mục tiêu và liên kết với những kẻ xâm lược từ bên ngoài.
  • Tế bào B ghi nhớ giúp hệ thống miễn dịch của bạn “ghi nhớ” những kẻ xâm lược từ bên ngoài để có thể phát động một cuộc tấn công mới nếu kẻ xâm lược quay trở lại.

Tế bào Lympho T

Tế bào lympho T chủ yếu tham gia vào khả năng miễn dịch thích nghi, qua trung gian tế bào. Đây là một loại miễn dịch không liên quan đến kháng thể mà thay vào đó trực tiếp nhắm mục tiêu và/hoặc tiêu diệt các tế bào lạ. Về bản chất, nó tiến hành cuộc chiến giữa các tế bào.

Tế bào T di chuyển từ tủy xương đến một tuyến nhỏ nằm phía sau xương ức gọi là tuyến ức . Tại đó chúng bắt đầu trưởng thành và chuyên biệt hóa thành các loại tế bào T khác nhau.

Các loại tế bào T khác nhau có chức năng khác nhau:

  • Các tế bào T gây độc tế bào trực tiếp nhắm mục tiêu và tấn công những kẻ xâm lược bên ngoài như vi khuẩn, vi rút và một số tế bào ung thư.
  • Các tế bào T trợ giúp tuyển dụng và phối hợp các tế bào miễn dịch khác để giúp chống lại nhiễm trùng.
  • Các tế bào T (NKT) sát thủ tự nhiên có thể tiêu diệt một số tế bào khối u nhất định và cũng nhắm vào các tế bào bị nhiễm bệnh để tiêu diệt. Chúng hoạt động như một phần của phản ứng miễn dịch bẩm sinh ở tuyến đầu.
  • Các tế bào T điều tiết điều chỉnh phản ứng miễn dịch để tránh phản ứng thái quá có thể gây hại cho cơ thể (như xảy ra với các bệnh tự miễn dịch). Tế bào T ghi nhớ “lưu giữ thông tin” về đặc điểm của những "kẻ xâm lược" bên ngoài để có thể phát động một cuộc tấn công mới nếu các tác nhân gây bệnh này quay trở lại cơ thể.