Phân tích tình huống truyện trong Vợ nhặt thấy nhặt

Phân tích tình huống tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân – Bài số 1

Trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, Kim Lân trở thành một gương mặt độc đáo, chứng tỏ quy luật thú vị: Sáng tác nghệ thuật “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Kim Lân viết không nhiều, trong 50 năm lao động nghệ thuật, ông chỉ có hai tập truyện ngắn nhưng mỗi tác phẩm của ông ra đời luôn tạo được ấn tượng sâu sắc cho độc giả. Trong đó Vợ nhặt là tác phẩm tiêu biểu nhất, hội tụ, kết tình tài năng nghệ thuật của Kim Lân. Truyện ngắn này hấp dẫn người đọc ngay từ tình huống truyện độc đáo.

Truyện ngắn Vợ nhặt từng được nhiều người không ngần ngại gọi là kiệt tác. thần bút Vợ nhặt có tiền thân là truyện Xóm ngụ cư được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám. Người Việt Nam ai đã từng sống qua năm 1945 chắc khó có thể quên nạn đói khủng khiếp cướp đi sinh mạng hai triệu đồng bào. Nếu Cách mạng tháng Tám là một cơn bão táp lịch sử lớn thì đứng trước cơn bão ấy dân tộc ta đã phải trải qua không khí ngột ngạt, cùng cực của cái đói. Đó chính là bối cảnh hiện thực của truyện ngắn Vợ nhặt. Dựa trên nền hiện thực ấy Kim Lân đã sáng tạo tình huống truyện độc đáo để diễn tả niềm vui, hạnh phúc và khát vọng sống ở những người lao động nghèo khổ.

Tình huống truyện là sự kiện đặc biệt của đời sống được nhà văn sáng tạo theo lối lạ hóa. 

Nói như Nguyễn Minh Châu, “tình huống truyện là lát cắt, là khúc của đời sống nhưng qua đó, ta hiểu được trăm năm của đời thảo mộc”. Có thể nói tình huống là một môi trường để nhân vật bộc lộ sắc nét tính cách của mình. Trong truyện Vợ nhặt, đó là tình huống “nhặt” được vợ. 

Truyện ngắn thông thường được xây dựng trên một tình huống độc đáo. Chính từ đây tính cách và số phận của nhân vật, chủ đề tác phẩm được thể hiện rõ nét. Tính cách độc đáo, tình huống truyện mà Kim Lân sáng tạo nên ngay từ cái tên tác phẩm Vợ nhặt. Xưa nay lấy vợ lấy chồng luôn được xem là sự kiện hệ trọng của một đời người. Vậy mà Tràng bỗng dưng nhặt được vợ về như nhặt một thứ rơi vãi ngoài đường. Một người đàn ông nghèo túng, xấu xí, lại là dân ngụ cư thế mà được một người đàn bà tự nguyện theo về làm vợ hẳn hoi. Kì lạ hơn nữa là Tràng dám đem vợ về giữa những ngày đói kém, khi cái chết vì đói đang rình rập đe dọa. Kim Lân mở đầu truyện bằng một cuộc trở về đầy lạ lùng. So với những lần trước thì lần trở về này chẳng có gì khác về thời gian, về con đường quanh co nhưng lần này Tràng mang một tâm trạng khác hẳn. Niềm khấp khởi trong lòng người đàn ông nghèo khổ được vợ ấy toát lên nơi gương mặt, ánh mắt: “mặt hắn có vẻ gì phởn phơ khác thường”. Hắn tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh. Phút chốc Tràng quên hết đói khổ ê chề trước mắt mà chỉ thấy tình nghĩa với người đàn bà đi bên. Phải thấu hiểu và trân trọng niềm vui hạnh phúc ở người dân nghèo khổ đến chừng nào mới diễn tả được cảm giác này “một cái gì mới mẻ lạ lẫm mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ có một bàn tay vuốt nhẹ sống lưng”. Sự xuất hiện của người đàn bà ấy đã khuấy động lên cái không khí tối sầm của xóm ngụ cư nghèo khổ. Bọn trẻ con chạy theo trêu Tràng, còn người lớn thì xôn xao bàn tán. Thoạt đầu họ nghĩ đó là bà con Tràng nhưng rồi dáng vẻ e thẹn, ngượng ngùng của người đàn bà nọ đã mách người ta về sự thực. Một lúc sau bỗng có tiếng cười lên rung rúc “Hay là vợ anh cu Tràng? Ư khéo là vợ anh cu Tràng thật anh em ạ, trông chị ta thèn thẹn hay đáo để”.

Kim Lân đã quan sát tài tình một tình huống thú vị và diễn tả nó đúnp bằng lời ăn tiếng nói của người quê.

Sự xuất hiện của người đàn bà lạ khiến mọi người xóm ngụ cư ngạc nhiên đã đành, thú vị hơn nữa là chính Tràng cũng ngạc nhiên. Người trong cuộc, người đã dẫn vợ về mà cứ ngạc nhiên với việc mình đã có vợ. Khi đã đem người đàn bà vào nhà nhìn thị ngó ngoáy giữa nhà mình mà Tràng cứ đi ra đi vào suy nghĩ vẩn vơ. “Ra hắn có vợ rồi đẩy ư? Hà!”. Việc xảy ra thật hắn cũng không ngờ, hắn cũng chỉ “tâm phơ tâm phào”, đâu có hai bận ấy thế mà thành vợ thành chồng. Từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến giờ Tràng đâu đã được một người con gái nào để ý đến. Thậm chí đến sáng hôm sau ngày có vợ Tràng vẫn chưa hết ngạc nhiên. Buổi sáng ấy, Tràng trở dậy muộn hơn, trong người cảm thấy lửng lơ êm ái như vừa trong giâc mơ đi ra “Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải”. Người đàn ông nghèo khổ ấy chưa thể thích ứng với niềm vui khá mới mẻ, với bước ngoặt quá đột ngột trong đời mình.

Tại sao có sự việc lạ lùng trên, có những sự ngạc nhiên ấy? Như thể giải đáp cho người đọc, Kim Lân ngược dòng thời gian hai lần tầm phơ tầm phào mà nên vợ nên chông, ở đây, chúng ta được chứng kiên nghệ thuật đảo ngược trình tự thời gian của Kim Lân. Chuyện Tràng có được vợ thật buồn cười, chỉ hai lần tình cờ gặp gỡ, chỉ mấy câu nửa đùa nửa thật mà người đàn bà nọ bám lấy Tràng, đã sẵn sàng trao gửi cuộc đời mình nơi Tràng. Nhưng nghĩ ra ta thấy thị còn biết bám vào đâu nữa. Dân gian có câu Chết đuối bám phải cọc thì chính là tình cảnh của người phụ nừ này. Đằng sau tiếng cười, người đọc nhận ra một sự thật xót xa, đó chính là cái đói và chi có cái đói khủng khiếp là tác nhân duy nhất để đẩy hai con người ấy lại gần với nhau rồi nên vợ nên chồng. Đây chẳng có màu sắc của tình yêu hay tình nghĩa, chỉ hai lần gặp gỡ mà người đàn bà nọ biến đổi khác hẳn. Lần trước thị còn lon ton chạy lại đẩy xe cho Tràng, còn liếc mắt cười tít khiến chàng sung sướng lắm. Nhưng lần sau vừa thấy Tràng đang uống nước ở cổng chợ tỉnh thì thị từ đầu sầm sầm chạy đến rồi sưng sỉa trách móc. Cái đói đã làm thị tiều tụy, hốc hác khiến Tràng chưa thể nhận ra “hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tô đỉa, thị gây xọp hẳn đi. Trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ nhìn thấy còn hai con mắt”. Khi được mời ăn hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng rực lên. Thị sà xuống ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Quả là cái đói khiến con nguời ta mất hết thể diện, quên hết tình tứ. Chính từ đây ta nhận ra một phần giá trị hiện thực lớn lao của truyện ngăn Vợ nhặt. Câu chuyện của người phụ nữ này sống dậy thảm cảnh đói năm 1945 mà dân tộc ta đã phải gánh chịu. Cúng từ đây chúng ta hiểu vì sao Kim Lân không đặt cho người vợ nhặt của Tràng một tên riêng mà lại dùng đại từ chung là “thị”’ Nào cần một cái tên riêng cho thân phận của người phụ nữ này vì ở thị có bóng dáng của bao người phụ nữ lúc bây giờ. Không biết bao nhiều người vì cái đói, vì sự sinh tôn cũng đành cư xử như thị. Trong thảm cảnh ấy, thị không hơn gì một cái rơm, cái rác mà người ta có thể nhặt được ở nơi đầu đường xó chợ. Phải chăng đó là ý nghĩa tiêu biểu, điển hình của nhân vật. Dầu sao chuyện nên vợ nên chồng cũng đã thành sự thật. Trở về hiện tại, người đọc chúng ta lại đứng trước sự chờ đợi mới liệu bà cụ Tứ có chấp nhận người vợ nhặt của Tràng không?”. Cuộc sống của gia đình này rôi đây sẽ ra sao, mọi người cư xử với nhau như thế nào. Kim Lân đã đặt các nhân vật của mình vào tình huống thử thách éo le để khám phá vẻ đẹp của tình thương, của khát vọng hạnh phúc. Ở đây là rách ít đùm rách nhiều. Ngay mẹ con Tràng cũng đang lo lắng với miếng ăn, chuyện cái chết vì đói đe dọa. Vậy mà họ vẫn sẵn sàng che chở, cưu mang người đàn bà ấy. Bà cụ Tứ vui vé chấp nhận người con dâu, an ủi, động viên vợ chồng Tràng chịu khó bảo nhau mà làm ăn. Buổi tối ấy ngọn đèn dầu được thắp lên trong căn nhà lạnh lẽo, tâm tối bấy lâu nay. Ánh sáng của ngọn đèn hay chính là ánh sáng của niềm vui mang đến với những con người nghèo khổ. Từ tình huống này, Kim Lân đã khẳng định được rằng những người đói không hướng đến cái chết mà chí hướng đến sự sống, dù phải ở hoàn cảnh đói khổ nghiệt ngã đến mấy người dân lao động vẫn biết vui với những gì mình đang có, vân lâp lánh Niềm tin vào tương lai.

Xem thêm:  Phân tích hình tượng anh bộ đội miền nam trong thơ Tố Hữu

Thiên truyện khép lại bằng hình ảnh Tràng ngồi tư lự nhớ đến Việt Minh. Trong đầu Tràng vẫn thấy hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới. Vậy là Kim Lân đã mở ra trước mắt các nhân vật của mình dự cảm về sự đấu tranh, về sự đổi đời. Không biết bà cụ Tứ, không biết vợ chồng Tràng có vượt qua nổi cơn đói mà sống đến ngày cách mạng thành công hay không? Dẩu sao khép lại trang cuối cùng của truyện ngán Vợ nhặt người đọc vẫn mong, vẫn tin rằng họ sẽ là một trong số những người góp phần làm nên cơn bão táp Cách mạng tháng Tám.

Là hạt nhân của cấu trúc thể loại, tình huống truyện trong Vợ nhặt đóng vai trò rất quan trọng giúp nhà văn dựng được chân dung nhân vật một cách sắc nét đồng thời thể hiện được tự nhiên, sâu sắc tư tưởng nghệ thuật của nhà văn. Đến với truyện ngắn Vợ nhặt, chúng ta bắt gặp một cái nhìn ưu ái của người lao động, một ngòi bút tài hoa khi dựng tình huống, khi tả cảnh, tả người. Kim Lân cứ dân người đọc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Vợ nhặt gồm nhiều tình huống được thay đổi linh hoạt nhờ sự tổ chức nghệ thuật của nhà văn. Bởi thế đây là tác phẩm đa dạng đan xen nhiều màu sắc thẩm mĩ. Ở đây có đen tối nghiệt ngã khác thường mà cũng tươi sáng lấp lánh lạc quan, vừa hài mà cũng vừa bi. Nói cách khác, đây là câu chuyện cười ra nước mắt để người đọc thấm thía hơn cái nghèo, cái đói và niềm vui sống đáng quý của người dân lao động.

Phân tích tình huống tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân – Bài số 2

a. Tình huống truyện của tác phẩm:

Trước hết, Tràng là một là một người mồ côi cha, ở với mẹ già tại xóm ngụ cư. Nhà nghèo, hắn làm nghề kéo xe bò thuê. Tràng có một ngoại hình xấu xí, thô kệch. Đã thế lại có phần dở người. Lời ăn tiếng nói cũng thô kệch như chính ngoại hình của hắn. Có thể nói, nguy cơ ế vợ đã rõ. Đã vậy, gặp năm đói khủng khiếp, cái chết luôn luôn đeo bám.Trong lúc không một ai ( kể cả Tràng) nghĩ đến chuyện dựng vợ, gả chồng thì đột nhiên Tràng có vợ, mà lại có vợ bằng cách nhặt được. Trong hoàn cảnh ấy, Tràng có vợ cũng là phải có thêm một miệng ăn và cũng là đem thêm tai hoạ về cho mình và mẹ, đẩy mau mình và mẹ đến cái chết. Như vậy, việc Tràng có vợ là một nghịch cảnh éo le, vui buồn lẫn lộn, cười ra nước mắt.Chính điều này đã làm cho nhiều người ngạc nhiên:

Đó là những người dân trong xóm ngụ cư: họ ngạc nhiên, bàn tán, phán đoán rồi họ cùng nghĩ: “ biết có nuôi nổi nhau qua được cái thì này không?” Còn bà cụ Tứ – mẹ Tràng- lại càng ngạc nhiên. Lúc đầu bà lão không hiểu, rồi bà “ cúi đầu im lặng” với bao tâm sự vui – buồn lẫn lộn “ biết chúng có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”. Nhất là, ngay chính bản thân Tràng cũng bất ngờ với chính hạnh phúc của mình“ nhìn thị ngồi ngay giữa nhà đến bây giờ, hắn vẫn còn ngờ ngợ”. Thậm chí, sáng hôm sau Tràng cảm thấy “ êm ái như từ giấc mơ đi ra”.

Tóm lại, tình huống truyện mà Kim Lân xây dựng vùa bất ngờ nhưng lại hợp lý, tạo sức hấp dẫn và nhiều suy nghĩ cho người đọc.

b. Thái độ của nhà văn:

– Với người dân lao động:

Qua câu chuyện, nhà văn đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất đối với con người nghèo khổ bằng cả tấm lòng nhân hậu của mình. Ông xót thương cho dân tộc trước thảm hoạ đói chết. Ông cũng ái ngạicho người con gái bị nạn đói cướp đi gần hết ( gia đình, nhan sắc, tính cách, tên tuổi …).

Không những vậy, nhà văn còn rất tinh tế khi phát hiện ra khát vọng hạnh phúc và niềm vui khi nhặt vợ của Tràng; cái duyên thầm của thị qua cái liếc mắt với Tràng…Có thể nói, nhà văn rất trân trọng và tự hào về vẻ đẹp nhân tính của con người lao động nghèo trước thảm hoạ đau thương, chết chóc.

Đồng thời nhà văn còn tập trung ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của nhân dân lao động qua hình ảnh của bà cụ Tứ: một người mẹ giàu tình thương con, giàu lòng nhân hậu và niềm tin vào cuộc sống à đây cũng chính là niềm tin của nhà văn vào phẩm chất tốt đẹp của con người.

– Với thực trạng xã hội đương thời, thông qua tình huống truyện, nhà văn lên án và tố cáo tội ác của Nhật – Pháp đã đẩy nhân dân ta vào thảm hoạ đói nghèo, chết chóc. Chính chúng đã làm cho giá trị con người trở thành rẻ rúng như rơm như rác: vợ mà nhặt được

Phân tích tình huống tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân – Bài số 3

1. Mở bài:

Kim Lân viết truyện ngắn không nhiều nhưng được coi là một trong những cây bút tài năng để lại những áng văn đặc sắc của văn học Việt Nam hiện đại, ông rất sành về cảnh quê, người quê và thế giới của hương đồng gió nội. Trên 50 năm lao động nghệ thuật, ông chỉ có hai tập truyện ngắn ít ỏi.

Vợ Nhặt là một chương được viết lại của truyện dài Xóm ngụ cư mà ông đã làm thất lạc 1946. Hòa bình 1954 được lập lại, theo đơn “ đặt hàng” của báo Văn nghệ nhân kỉ niệm Cách mạng tháng Tám, tác giả đã công bố truyện Vợ Nhặt. Như vậy, truyện ngắn này nó có được cái độ chín của một quá trình nghiền ngẫm lâu dài và kĩ lưỡng về mặt nghệ thuật.

2. Thân bài:

Khi đề cập đến truyện ngắn, người ta thường quan tâm tới ba yếu tố: tình huống truyện; nhân vật của truyện, giọng điệu trần thuật của tác giả. Có nhiều truyện ngắn sự sáng tạo tình huống đóng vai trò then chốt, đặt vào trong tình huống ấy, nhân vật truyện thường bộc lộ sâu sắc, tâm lí và tính cách; tư tưởng nghệ thuật của thiên truyện cũng nhờ thế mà đậm đà; các chi tiết xoay quanh tình huống ấy trở lên hấp dẫn và giàu ý nghĩa. Phát hiện ra tình huống trong cuộc sống đời thường chằng chịt nhiều mối quan hệ đã là rất khó, thế nhưng, giải quyết tình huống ấy lại cần đến tài năng, bản lĩnh nghệ thuật và quan trọng nhất là tấm lòng người viết. Chỉ có vậy thì tình huống ấy, nhân vật ấy mới trở thành điển hình nghĩa là rất cá biệt, rất lạ đồng thời cũng nói lên được bản chất sâu sắc của cuộc sống.

– Bối cảnh rộng lớn nhất để cho một tình huống này xuất hiện chính là nạn đói khủng khiếp 1945 và qua đây ta thấy được số phận bi thảm của con người. Chính Kim Lân đã công khai ý đồ sáng tác của mình “trong sự túng đói quay quắt, trong bất cứ hoàn cảnh khốn khổ nào người nông dân ngụ cư vẫn khao khát vươn lên trên cái chết, cái thảm đạm để mà vui để mà hi vọng (Báo Văn nghệ- số 19-1993).

Vợ nhặt đã nói lên cái hình tượng nghệ thuật về một sự thực lịch sử là nạn đói 1945 từ Quảng Trị đến Bắc Kì hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói (Tuyên ngôn Độc lập, cái nạn đói mà trong Đôi mắt của Nam Cao, nhân vật Độ đã hồi tưởng “Cái hồi đói khủng khiếp mà có lẽ đến năm 2000, con cái chúng ta vẫn còn kể lại cho nhau nghe để rùng mình” 2 triệu người quằn quại chết trên tổng dân số 20 triệu người không phải là con số ít ỏi. Bóng đen chết chóc đã phủ xuống xóm làng Việt Nam. Cái đói “đã tràn đến” quả là hình bóng của thần chết đang lạnh lùng đi gây niềm kinh hoàng cho người dân nước Việt, tràn đến gợi đến những cơn đại hồng thủy, gợi một sự tàn diệt không thể tránh khỏi của con người. Tác giả đã gây ra một ám ảnh thê lương qua hai loại hình ảnh con người năm đói và hoàn cảnh không gian của nạn đói. Tất cả đều đầy âm khí chết chóc. “Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình đội chiếu lũ lượt bồng bế dắt nhau lên, xanh xám như những bóng ma và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngã rạ, không buổi sáng nào không gặp 3, 4 cái thây nằm chòng queo bên đường” Kim Lân gọi họ là những bóng ma vật vờ trên dương thế. “Bóng những người đói dật dờ đi lặng lẽ như những bóng ma”. Con người và bóng ma; cái ăn và cái đói, sự sống và cái chết, chỉ là một lằn ranh như sợi tóc. Tất cả đang bước về phía ma.

Miền trần gian ta cứ ngỡ là miền địa ngục. Trong thế giới của những xác người ngổn ngang ta nghe được ban ngày tiếng quạ gào lên từng hồi thê thiết cùng với mùi gây của xác người; ban đêm tiếng khóc hờ của người sống, với người chết và gây gây bởi đống rấm đốt đồ người chết. Tất cả được chụp bởi vung trời mùa đông xám xịt lặng lẽ – Người chết đã đành, những người sắp chết thật bi thảm có thể thấy điều này qua nhân vật cô gái vô danh sẽ là một người vợ nhặt cũng vô danh của nhân vật Tràng. Cái đói đã làm cho thị rách rưới như tổ đỉa và cái mặt của cô ta trở nên gầy guộc khô lạnh như lưỡi cày. Cô sẵn sàng sà xuống quán ăn liền tù tì một lúc 4 bát bánh đúc và sau đó lon ton chạy theo một người đàn ông không quen để làm vợ với mục đích khỏi chết đói.

Xem thêm:  Phân tích bài thơ “Đàn ghi-tar của Lor ca” của Thanh Thảo

Đầy liều lĩnh, buồn vui, lo âu, hi vọng.

a) Trước hết ta ngẫm nghĩ về cái tên của tác phẩm: Người ta thường nói vợ đẹp, vợ hiền, vợ như tiên không ai lại để ở một động từ phía sau để định danh, để xác định một phẩm chất. Vợ nhặt có nghĩa là cô vợ ấy được một người đàn ông nhặt về như một thứ đồ rơi, như một vật thể người ta vứt bỏ mà mình còn tận dụng. Vợ nhặt còn có thể hiểu đó là người vợ không ra gì, giá trị của cô ta chỉ ngang bằng với những gì của một đồ vật “ xí được”. Không phải ngẫu nhiên mà Kim Lân để cho cô vợ nhặt ấy đi hết tác phẩm vẫn không có một cái tên, Kim Lân đã cắt nghĩa “ Nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ. Trong cảnh đói 1945 người dân lao động thường dường như khó ai thoat khỏi cái chết. Bóng tối của nó phủ xuống xóm làng. Tuy hoàn cảnh ấy giá trị của một con người thật vô cùng rẻ rúng. Người ta có thể có vợ theo chỉ nhờ mấy bát bánh đúc ngoài chợ – Đúng là nhặt được vợ như tôi đã nói trong truyện”. Như vậy, cái thiêng liêng là “ vợ” đã trở thành cái rẻ rúng ( nhặt). Cái tên vợ nhặt đã cung cấp cho người đọc theo dõi một tình huống độc đáo.

b) Nhân vật Tràng và người vợ nhặt:

Khi đến bước đường cùng người ta thường liều lĩnh. Tràng đùa nhưng cô gái sắp chết đói thì làm thật. Cô xin ăn và theo không anh về nhà là hành động liều.

Cũng liều nhắm mắt đưa chân.
Mà xem con Tạo xoay vần ra sao

Dù sao, thì Tràng cũng là người vui tính xởi lởi. Anh là niềm vui của bọn trẻ con xóm ngụ cư, cứ mỗi lúc cái anh chàng vừa thô, vừa xấu vừa dở hơi về làng là bọn trẻ con cứ đu lấy anh mà trêu chọc cười đùa. Khi nhận cô gái về làm vợ, Tràng thấy “chợn” nhưng rồi anh cũng chậc lưỡi đánh liều. Hai cái liều gặp nhau để định hướng vấn đề rất nghiêm túc. Đó là chuyện lập gia đình, đó là cơ hội duy nhất để Tràng vứt bỏ cái dở hơi của mình. Đúng như bà cụ Tứ nghĩ “ Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này người ta mới lấy đến con mình mà con mình mới có vợ được”. Nhân vật Tràng trên đường đưa vợ về nhà thấy mọi người nhìn ngó đã lấy đó làm niềm tự hào “ Cái mặt cứ vênh lên tự đắc” với mình niềm vui lấn át nỗi lo. Anh không hiểu nổi tại sao vợ lại buồn, mẹ lại khóc, “Chán quá chẳng đâu vào đâu tự nhiên cũng khóc”. Tràng bỗng nhiên nhặt được vợ, hạnh phúc của Tràng quá lớn và quá đột ngột mãi đến sáng hôm sau Tràng vẫn thấy “ Trong người êm ái lửng lơ như người ở trong giấc mơ đi ra”. Và cùng với niềm vui ấy, Tràng ý thức rõ rệt hơn về trách nhiệm với tổ ấm gia đình. Anh yêu thương, anh muốn gắn bó với mẹ mình, với vợ mình, với cái nhà, cái sân mảnh vườn của mình “Một nguồn vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng bây giờ hắn mới thấy hắn lên người”, hi vọng đã nhen lên. Ở phần cuối tác phẩm Tràng đã nhớ ra “ Cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp “ để phá kho thóc của Nhật” Tràng tự dưng thấy ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ khó hiểu, khi nghĩ đến chiếc xe thóc mà mình vẫn đẩy lên làm công cho Liên Đoàn. Biến cố Cách mạng tháng Tám đang đến gần, lá cờ đỏ sao vàng đang phấp phới bay trong óc Tràng sẽ cho hai cái liều của vợ chồng Tràng thoát hiểm, có hi vọng, có tương lai.

Buồn tủi nhất là tâm trạng của người vợ mà tràng nhặt được. Lấy chồng là chuyện thiêng liêng phó thác cả đời mình cho người đàn ông mà mình yêu kính. Thế mà cô vợ của Tràng hoàn toàn đi theo tiếng gọi của cái ăn, không phải đáp ứng nhu cầu của trái tim mà là phải giải quyết quyền lợi của bao tử. Người phụ nữ này không biết Tràng xấu tốt thế nào, chỉ một câu hò bâng quơ và mấy chiếc bánh đúc riêu cua là cô nàng theo không về nhà. Người đọc cảm thấy ghê sợ đến tởm lợm một nhân cách mà là nhân cách phụ nữ: cái ăn đã hạ thấp nhân phẩm; cái ăn khiến cho ta thấy cái nhục kèm theo, cái ăn đã tước đoạt luôn giới tính ngàn đời phụ nữ Việt Nam. Người đàn bà trơ tráo, nhâng nháo không biết đến sĩ diện chút nào!. Sự xấu hổ và ý thức tự trọng đã không còn chút mảy may trong tính cách của người đàn bà nhặt được này. Hoàn toàn có thể hiểu được, khi người ta tự coi mình là cái rơm cái rác mà ai cũng có thể nhặt đầu đường xó chợ. Tuy nhiên trên con đường đi về nhà chồng người vợ nhặt đã lầm lũi lấy nón che mặt như sợ người ta phát hiện mình là một kẻ tội phạm. Cái hành động chào đến ba lần người mẹ của Tràng cụ mới nghe được cùng với cái chi tiết lặng im “ mân mê tà áo đã rách bợt” cho thấy ý thức về bổn phận, ý thức mình là dâu, là vợ đã trở về với cô gái mà mới đây thôi “ đanh đá, ngoa ngoắt chỏng lỏn”. Chính cái việc phục hồi lại nhân phẩm cho mình và những hành động dọn dẹp nhà cửa của người vợ nhặt đã nhen lên một niềm hi vọng, gia đình Tràng có thể hạnh phúc nếu cái đói không cướp đi sinh mạng của họ.

c) Phân tích tâm trạng bà cụ Tứ khi đón nhận nàng dâu

– Quá trình tâm lí ở bà cụ Tứ có phần phức tạp hơn nhân vật Tràng. Nếu nhân vật Tràng đang say trong niềm vui của một chàng rể tràn trề hạnh phúc,tâm lí phát triển theo chiều thẳng đứng thì ở mẹ Tràng tâm lí có kiểu gấp khúc bởi người mẹ này cả cuộc đời đã đổ nhiều nước mắt, đã có nhiều nghiệm sinh. Vì thế, trong chiều sâu của người từng trải và nhân hậu này có bao nhiêu niềm trắc ẩn.

Trước hết là bà cụ rất ngỡ ngàng. Người con trai của bà ngỡ ngàng về một cái đã biết, còn bà cụ thì ngỡ ngàng trước một cái điều dường như không sao hiểu nổi. Đột nhiên có một cô gái xuất hiện trong túp lều của mình, bà cụ Tứ có hàng loạt các câu hỏi thắc mắc.

“Quái sao lại có người đàn bà nào trong ấy nhỉ? Người đàn bà này lại đứng ngay đầu giường của con trai mình thế kia” và thật lạ kì sao lại chào mình bằng u, “ ai thế nhỉ” thậm chí càng nghi vấn bà càng bối rối ngỡ ngàng “ Ô hay thế là thế nào nhỉ?”. Đối với một người mẹ rất nhân hậu, dành tất cả đời mình lo cho con, dĩ nhiên trong trường hợp này sẽ rất nhạy cảm, có thể bà mẹ sẽ ngạc nhiên nhưng rồi sẽ định thần ngay không hiểu ra làm sao nữa. Hoàn toàn Kim Lân không có ý thức “ kịch hóa” để tạo cái chi tiết này. Đây chính là một nỗi đau thăm thẳm nó xuất phát từ một cái hiện thực: Chính sự cùng quẫn của hoàn cảnh đã đánh mất ở người mẹ sự nhạy cảm đáng lẽ rất dễ dàng nhận biết đó. Sau sự ngỡ ngàng nhân vật Tràng đi thẳng tới cái hạnh phúc của mình, bà mẹ thì dích dắc hơn, sau khi “ hiểu ra biết bao cơ sự, vừa ai oán, vừa xót thương cho số phận đứa con mình” bà lão “ cúi đầu im lặng”. Đó là nỗi xót xa lo thương lẫn lộn, tình thương của người mẹ nhân hậu ấy mới bao dung làm sao, một câu hỏi nữa được đặt ra chứa đựng nỗi lo âu “ Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau, sống qua được cơn đói khát này không”. Vậy là người mẹ không chỉ chấp nhận cái hành động anh con trai mà đã mở tấm lòng người mẹ, đã chấp nhận người con dâu. Cụ Tứ sử dụng từ “ chúng nó” hết sức bình dị trong ngôn ngữ người bình dân nhưng Kim Lân đã cho ta thấy sau giây phút im lặng cúi đầu ấy đã nói ra cái điều không phải là không trăn trở. Bởi cái cúi đầu ấy bà mẹ đã tiếp nhận hạnh phúc của con bằng cái kinh nghiệm sống, bằng cái sự trả giá cho chuỗi đời nặng nhọc và bằng ý thức sâu sắc trước hoàn cảnh của nạn đói. Từ tình thương bà cụ Tứ đã chuyển sang nỗi lo để tạo thành một trạng thái tâm lí triền miên day dứt. Bà không nghĩ đến mình, không nghĩ đến cái việc có nàng dâu được lợi gì, mà chủ yếu dòng ý nghĩ này của người mẹ là quan tâm tới bổn phận làm mẹ chưa tròn của mình. Bà lão nghĩ đến ông lão, đến con gái út, đến nỗi khổ đời mình và nghĩ đến tương lai của con, tâm trạng rất phức tạp vừa đầy lo âu buồn tủi lại vừa sung sướng tự động viên mình, coi con dâu như một ân nhân của mình đã làm cho bổn phận người mẹ được hoàn thành “ người ta gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình mà con mình mới có được vợ”. Thôi bổn phận bà làm mẹ, bà đã chẳng lo lắng gì được cho con, nghĩ vậy nên cuối cùng dồn tụ trong bao nhiêu lo lắng yêu thương ở câu nói giản dị “ chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá”. Như vậy, trên những bề bộn ngổn ngang buồn lo, niềm vui của mẹ vẫn ánh lên, và tỏa hơi ấm kì diệu từ …nồi cháo cám. Nỗi hân hoan của mẹ được thốt lên như tiếng reo hạnh phúc của đứa trẻ, “ chè đây – bà lão múc ra một bát – chè khoán đây ngon đáo để”. Rõ ràng, bà lão rất tin cái nồi cháo cám này là ngon. Chúng ta cần cảm nhận tiếng “ ngon” này trong ý nghĩa về tinh thần hơn là về vật chất. Bà mẹ rất tin vào hạnh phúc của con nên cái đắng chát của nồi cháo cám đã trở thành cáu ngọt ngào của hạnh phúc, của tinh thần. Chọn hình ảnh nồi cháo cám, Kim Lân muốn chứng minh cho cái chất người: Trong bất kì hoàn cảnh nào tình nghĩa và hi vọng không thể bị tiêu diệt, con người vẫn muốn sống cho ra sống, và cái chất người thể hiện cách sống tình nghĩa và hi vọng. Tuy nhiên Kim Lân không phải là nhà văn lãng mạn. Niềm vui của bà cụ Tứ vẫn là một niềm vui tội nghiệp bởi hiện tại vẫn là nghiệt ngã: Nồi cháo cám vẫn “ đắng chát” và “nghẹn bử”. Như vậy trong tình huống của câu chuyện nhặt vợ đã có ba nhân vật liên đới. Cả ba đều bị hung thần Đói đe dọa, khi cả ba sống rời rạc như những hình nhân dật dờ không có cơ hội để nhen lên những đốm sáng của chất người, tình người. Thế nhưng khi cả ba chụm lại, thì nó đã nên hòn núi cao của tình người. Giữa cái đói, nhặt vợ về để mưu cầu hạnh phúc,cả ba con người hồi sinh để làm người, chính là tình huống đặc biệt để làm sáng ngời tinh thần nhân đạo. cái vẻ đẹp tinh thần của những người nghèo khổ, cái thế vượt hoàn cảnh ấy chính là nội dung nhân đạo độc đáo rất cảm động.Nó đem đến cho người đọc nhiều suy nghĩ.

Xem thêm:  Phân tích bài thơ Sóng (Xuân Quỳnh) – Văn mẫu lớp 12

3. Kết luận

Rất nhiều các nhà văn lớn đã viết về bài ca của con người, nhưng bài ca lớn nhất, âm vang nhất vẫn là sức mạnh tinh thần có thể giúp con người phá vỡ hoàn cảnh bế tắc để thoát hiểm, để hi vọng và để xứng đáng với danh dự làm người. Kim Lân đã góp thêm cho bài ca ấy, bài ca con người, một điệu nhạc buồn nhưng trong những dòng nước mắt lặng lẽ, trong cái u ám tối trời, tối đất của nan đói vẫn ánh lên những đốm lửa của hi vọng, của tương lai. Không hiểu sao gấp trang sách lại, toi thấy cái logic của dòng nước mắt, của hành động thắp đèn trong đêm tân hôn, của lá cờ đỏ phấp phới trong óc Tràng và tôi tin, gia đình người nông dân xóm ngụ cư này sẽ vượt qua cái thời tao loạn của nạn đói khủng khiếp này. Họ sẽ hạnh phúc bởi vì chỉ cần một bước nữa thôi Cách mạng tháng Tám 1945 sẽ thành công…

Phân tích tình huống tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân – Bài số 4

Tình huống truyện giữ vai trò quan trọng trong sự thành công của một truyện ngắn. Tình huống là một sự kiện giúp nhân vật bộc lộ các mối quan hệ, khả năng ứng xử, tính cách, đôi khi tình huống truyện còn tạo ra những bước ngoặt lớn trong cuộc đời các nhân vật. Thông qua tình huống truyện tác giả gửi gắm tới độc giả những tâm tư, tình cảm, chủ đề của tác phẩm. Đối với truyện ngắn Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân đã xây dựng được một tình huống truyện rất độc đáo, hấp dẫn những cũng đầy nghịch cảnh éo le.

Truyện ngắn Vợ nhặt lấy bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu (1945). Một không gian năm đói được mở ra trước mắt bạn đọc với những con người “hốc hác, u tối” giống bóng ma xanh xám, dật dờ, ngoài đường xác người chết ngổn ngang “ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người” càng tô đậm thêm cảnh tang tóc, thê lương. Giữa bối cảnh ấy anh Tràng một anh chàng nông dân vừa nghèo, vừa xấu, lại là dân ngụ cự, vậy mà thông qua vài câu nói đùa bâng quơ lại có người gọi là “vợ” theo về. Đây quả là một tình huống vừa lạ vừa độc và không bị trùng lặp với bất kỳ truyện ngắn nào từ trước từ giờ.

Khi nhìn thấy anh Tràng có vợ theo về mọi người trong xóm Ngụ Cư lạ lắm, họ lo cho anh “Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?”. Bà cụ Tứ mẹ anh là người hiểu anh nhất cũng tỏ ra rất bất ngờ khi thấy anh có vợ. Thấy có người đàn bà nào đứng ngay ở đầu giường con mình, bà cụ cứ ngơ ngác tự hỏi: “ Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Sao lại chào mình bằng u? Ai thế nhỉ?” Bà cụ cảm thấy khó hiểu. Nghèo như con bà ai người ta thèm lấy mà có vợ được. Bà nghĩ giữa cái nạn đói quái ác này nuôi thân chẳng nổi thì lấy gì nuôi nổi vợ con? Bản thân Tràng thì vẫn chưa tin rằng mình đã có vợ, anh vẫn lâng lâng chưa thực sự tin vào hiện tại, anh ta “ vẫn ngờ ngợ như không phải thế”.

Thông qua một tình huống bất ngờ, oái oăm như vậy tác giả Kim Lân đã giúp các nhân vật bộc lộ sâu sắc tính cách và khắc họa rõ nét tâm trạng của mỗi người. Bà cụ Tứ tâm trạng đầy mâu thuẫn, bà vừa vui mừng vừa tủi, vừa thương vừa lo lắng:”Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con trong lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mày mở mặt sau này”. Lòng bà cụ ngổn ngang đầy lo lắng. Mừng vì dù sao con mình cũng có vợ “ừ, thôi thì các con phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng..”, nhưng xen vào đó là nỗi tủi nhục của người mẹ già yếu khó khăn, lam lũ:”người ta gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được..”

Anh Tràng có vợ vừa mừng vừa lo. Mới đầu anh ta thấy “chợn”, nhưng liền sau đó chặc lưỡi mặc kệ. Trên đường đưa vợ về nhà, thấy người ta tò mò nhìn ngó, “ mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt sáng lên lấp lánh”. Niềm hạnh phúc đến với anh quá bất ngờ đến nỗi anh ta không tin rằng mình đã có vợ. Mãi đến sáng hôm sau anh vẫn còn thấy “ trong người êm ái lửng lơ như vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Và chính niềm vui ấy làm cho anh thấy mình đã trưởng thành thật sự, lúc này anh cảm thấy lo lắng cho tương lai của anh, của mẹ, của vợ và cả những đứa con anh sau này nữa.

Tuy là nhân vật phụ nhưng lại được chú ý nhiều nhất đó chính là nhân vật Thị. Đối với người khác lấy chồng là chuyện thiêng liêng cả đời nhưng đối với người phụ nữ này thì chỉ là một cái “tặc lưỡi” cho xong. Chị ta không biết Tràng là ai, tốt xấu thế nào, nhà cửa ra sao. Chỉ qua vài câu chuyện tào lao và bốn bát bánh đúc Thị đã theo về làm vợ người ta. Cái đói cái nghèo đã đẩy người đàn bà đến chỗ chẳng còn biết xấu hổ là gì, mất hết ý thức tự trọng, thấy mình không hơn gì cái rơm cái rác, người ta có thể nhặt được nơi đầu đường xó chợ.

Thông qua tình huống truyện nhặt được vợ của anh Tràng tác giả Kim Lân đã tên án tố cáo tội ác của đế quốc Nhật và Pháp. Chúng đã gây ra cho dân ta nạn đói khủng khiếp năm 1945. Tác giả đã đưa độc giả đến với câu chuyện của một gia đình xóm Ngụ Cư nghèo khổ, đến với câu chuyện lấy được vợ của anh Tràng bằng vài bát bánh đúc. Tác giả buộc người đọc phải trăn trở, phải suy nghĩ, day dứt mãi không thôi khi mà thân phận con người bị khinh thường, dẻ dúng không bằng cỏ rác.

Tình huống truyện đầy éo le nghịch cảnh đã đẩy nhân vật bên bờ vực cái chết, nhưng qua tâm trạng của các nhân vật chúng ta cảm thấy ấm lòng vì họ vẫn còn niềm tin vào sự sống, vào tình yêu vào cái gọi là “tình cảm gia đình”. Họ mơ ước về một cuộc sống gia đình hạnh phúc, ấm no, có mẹ có vợ, có chồng và cả những đứa con. Đó là những ước mơ rất đỗi giản dị. họ vẫn luôn tin vào một ngày mai tươi sáng giống như các cụ xưa vẫn nói “không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”. Niềm tin đó như được chắp thêm đôi cánh khi ánh sáng Cách mạng với lá cờ đỏ Việt Minh bay phấp phới xuất hiện trong câu chuyện của bà mẹ gà và đôi vợ chồng trẻ trong bữa cơm đoàn viên đầu tiên của gia đình họ.

Tác phẩm Vợ nhặt đã đưa người đọc đến với cuộc sống ấm áp đầy tình người của gia đình bà cụ Tứ. Khi gấp lại cuốn truyện chúng ta cảm thấy xót xa xen lẫn hạnh phúc với những thân phận con người trong xã hội lúc bấy giờ, càng khâm phục tài năng viết truyện ngắn của tác giả Kim Lân đặc biệt là khả năng xây dựng tình huống truyện.

Thanh Bình tổng hợp