Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ có tên viết tắt là

Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (tiếng Anh: Organization of Petroleum Exporting Countries, viết tắt: OPEC) là một tổ chức liên chính phủ điều phối và thống nhất các chính sách dầu khí của các quốc gia thành viên.

Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ có tên viết tắt là

Hình minh họa (Nguồn: albawaba.com)

Khái niệm

Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ trong tiếng Anh là Organization of Petroleum Exporting Countries; viết tắt là OPEC.

Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) là một tổ chức liên chính phủ được thành lập tại Hội nghị Baghdad năm 1960. Năm nước thành viên sáng lập của OPEC là Iran, Iraq, Kuwait, Ả Rập Xê Út và Venezuela. OPEC là một tổ chức liên chính phủ thường trực của 14 quốc gia đang phát triển xuất khẩu dầu mỏ, là tổ chức điều phối và thống nhất các chính sách dầu khí của các quốc gia thành viên.

Mục tiêu hoạt động của OPEC

Mục tiêu hoạt động chính thức của OPEC được ghi trong Qui chế Thành lập của tổ chức là điều phối và thống nhất chính sách khai thác dầu giữa các nước thành viên nhằm ổn định giá dầu thế giới ở mức công bằng và ổn định cho các nước sản xuất, đảm bảo nguồn cung dầu hiệu quả, kinh tế và thường xuyên cho các nước tiêu dùng, đảm bảo mức lợi nhuận công bằng cho các nhà đầu tư, qua đó bảo vệ lợi ích của các nước thành viên.

Nói cách khác, về bản chất, OPEC chính là một cartel (liên minh kinh tế) giữa các nước sản xuất dầu lửa nhằm duy trì một cơ cấu giá có thể phản ánh được lợi ích của các nước thành viên thông qua việc phối hợp định giá và xây dựng hạn ngạch sản xuất cho các nước thành viên.

Công cụ điều chỉnh sản lượng dầu của OPEC

Công cụ chính được OPEC sử dụng để điều chỉnh sản lượng dầu bán ra thị trường của các nước thành viên chính là hạn ngạch sản xuất. Đại diện các quốc gia thành viên nhóm họp mỗi năm 2 lần nhằm thiết lập chính sách sản xuất chung trong tương lai dựa trên dự báo toàn cầu về cung và cầu dầu lửa. Mỗi hội nghị OPEC đều đặt ra hạn ngạch sản xuất mới, chia theo tỉ lệ tương ứng cho các quốc gia thành viên.

Cam kết của các nước thành viên đối với hạn ngạch sản xuất không phải lúc nào cũng nhất quán, và một số nước thành viên OPEC, đặc biệt là những nước có sản lượng nhỏ, thường xuyên vượt quá hạn ngạch được phép của mình. 

Các thành viên có sản lượng lớn, đặc biệt là Ả Rập Xê Út, thường phải cắt giảm sản lượng của mình để bù cho việc sản xuất quá hạn ngạch của các thành viên khác. Việc giá dầu sụt giảm giữa những năm 1980 và cuối những năm 1990 một phần là do các thành viên thiếu cam kết trong việc tuân thủ hệ thống hạn ngạch.

OPEC trong giai đoạn hiện nay

Ngành công nghiệp dầu mỏ ngày nay mang những đặc điểm của một mô hình đa nhân tố. Có một số nhân tố quan trọng, song không một nhân tố nào có thể một mình duy trì được sự ổn định của thị trường. Tầm quan trọng của OPEC đã suy giảm sau giai đoạn được xem là đỉnh cao của tổ chức này vào giữa những năm 1970, nhưng chưa có một tổ chức nào có đủ khả năng để thay thế nó. 

Sự suy giảm về tầm quan trọng của OPEC cũng đi kèm với nỗ lực chung của thế giới trong việc tiết kiệm năng lượng và tìm kiếm các nguồn năng lượng thay thế. Trong cơ cấu doanh nghiệp của ngành, các công ty quốc doanh hiện giữ vai trò chủ đạo. Theo Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (US Energy Information Administration), tính đến thời điểm năm 2007, xấp xỉ 78% sản lượng dầu thế giới do 50 công ty sản xuất, 70% số sản lượng này được sản xuất bởi các công ty dầu mỏ quốc doanh.

(Tài liệu tham khảo: Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế, Khoa Quan hệ quốc tế – Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TPHCM, năm 2013)

TH

Viết tắt của Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ Ả Rập. Được thành lập vào tháng 1 năm 1968 bởi ba quốc gia, Ả Rập Saudi, Kuwait và Libya, để tăng cường sự đoàn kết của các quốc gia sản xuất dầu Ả Rập. Sau đó, Algeria, Abu Dhabi (được ủy quyền cho Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE) vào tháng 6 năm 1974), Catar, Bahrain, Iraq, Ai Cập, Syria đã tham gia và có 10 quốc gia thành viên (tính đến cuối năm 1996. Tư cách thành viên Ai Cập đã bị đình chỉ từ tháng 4 năm 1979, nhưng trở lại năm 1989). Mục đích là xem xét các cách để bảo vệ lợi ích của các quốc gia thành viên và hợp tác trong các hoạt động kinh tế khác nhau trong ngành dầu khí. Cụ thể, đó là (1) phối hợp các chính sách kinh tế và dầu mỏ, (2) hợp tác lẫn nhau để giải quyết các vấn đề khác nhau trong ngành dầu khí và (3) thúc đẩy các dự án chung giữa các quốc gia thành viên liên quan đến các ngành liên quan đến dầu mỏ. Ông chịu trách nhiệm thúc đẩy các dự án chung liên quan đến ngành dầu khí, chẳng hạn như thành lập một công ty vận hành tàu chở dầu Ả Rập, xây dựng một bến tàu khô để sửa chữa tàu và thành lập một công ty kỹ thuật chung. Tổ chức này bao gồm một cuộc họp chung, một ban giám đốc và một ban thư ký, được đặt tại Thành phố Kuwait. OPEC (Opetsu) Liên quan đến mối quan hệ với (Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ), OPEC đã quyết định rằng chính sách dầu tổng thể và chiều cao sẽ được OPEC quyết định và các nước thành viên OAPEC sẽ tuân theo nghị quyết, và trong khuôn khổ đó, dầu Ả Rập quyết định chính sách cụ thể được thực hiện.

Tên của OAPEC được biết đến rộng rãi trên toàn thế giới do chiến lược dầu được đưa ra vào ngày 17 tháng 10 năm 1973. Ngày 3 tháng 6 năm 1967 Chiến tranh trung đông Mặt khác, các quốc gia sản xuất dầu Ả Rập đã đưa ra lệnh cấm vận dầu mỏ đối với Hoa Kỳ, Anh và Tây Đức, nhưng không thành công. Trên thực tế, thất bại này là cơ hội và vào tháng 1 năm sau, OAPEC này được thành lập để tăng cường tình đoàn kết. Các quốc gia thành viên OAPEC sẽ có hai mục tiêu cho Chiến tranh Trung Đông lần thứ 4 vào tháng 10 năm 1973: (1) rút hoàn toàn Israel khỏi khu vực chiếm đóng bởi Chiến tranh Trung Đông lần thứ 3 và (2) khôi phục các quyền của Palestine. Để đạt được điều này, chúng tôi đã thực hiện chiến lược dầu mỏ bao gồm tổng lệnh cấm vận dầu mỏ đối với Mỹ và Hà Lan chống lại các nước thù địch và cung cấp hạn chế cho các nước không thân thiện. Với chiến lược dầu OAPEC này và tăng giá đáng kể của OPEC, các nước nhập khẩu tiên tiến trên thế giới, đặc biệt là Nhật Bản, Khủng hoảng dầu mỏ Nó trở nên dày vò. Do khuyến khích các nước thành viên OAPEC, như đề xuất chính sách ủng hộ Ả Rập và phái một đặc phái viên đến Takeo Miki, Nhật Bản được coi là một quốc gia thân thiện và được miễn hạn chế sản xuất. Đã được phát hành. Không có khả năng chiến lược dầu mỏ sẽ được khôi phục trong tương lai hoặc cơ hội thành công, nhưng Nhật Bản cũng sẽ đóng góp tích cực để duy trì hòa bình, ngăn ngừa xung đột và thúc đẩy sự hiểu biết và hợp tác lẫn nhau. Sẽ cần phải làm.
Biển sâu Hiroaki


Page 2

  • Người cấm đoán Hoa Kỳ đã đột kích các quán rượu và phá hủy các chai rượu bằng một cái vòi (1846-1911)

Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ là một tổ chức đa chính phủ được thành lập bởi các nước Iran, Irắc, Cô oét, Arập Xêút và Vênêxuêla tại Hội nghị Batđa. Vậy OPEC là gì? Chức năng và vai trò của tổ chức các nước xuất khẩu dầu lửa OPEC ra sao?

1. OPEC là gì?

Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) là một tổ chức liên chính phủ được thành lập tại Hội nghị Baghdad năm 1960. Năm nước thành viên sáng lập của OPEC là Iran, Iraq, Kuwait, Ả Rập Xê Út và Venezuela. OPEC là một tổ chức liên chính phủ thường trực của 14 quốc gia đang phát triển xuất khẩu dầu mỏ, là tổ chức điều phối và thống nhất các chính sách dầu khí của các quốc gia thành viên.

OPEC là tổ chức đa chính phủ được thành lập bởi các nước Iran, Iraq, Kuwait, Ả Rập Xê Út và Venezuela trong hội nghị tại Bagdad (10-14/9/1960). Các thành viên Qatar (1961), Libya (1962), UAE (1967), Algérie (1969) và Nigeria (1971) lần lượt gia nhập tổ chức sau đó. Ecuador (1973–1992), Indonesia (1962-2008) và Gabon (1975–1994) cũng từng là thành viên của OPEC. Trong 5 năm đầu tiên trụ sở của OPEC đặt ở Genève, Thụy Sĩ, sau đấy chuyển về Viên, Áo từ tháng 9/1965.

Trong năm năm đầu tiên trụ sở của OPEC đặt ở Genève, Thụy Sĩ, sau đấy chuyển về Wien, Áo từ tháng 91965. Các nước thành viên OPEC khai thác vào khoảng 40% tổng sản lượng dầu lửa thế giới và nắm giữ khoảng 3/4 trữ lượng dầu thế giới. OPEC có khả năng điều chỉnh hạn ngạch khai thác dầu lửa của các nước thành viên và qua đó có khả năng khống chế giá dầu. Hội nghị các bộ trưởng phụ trách năng lượng và dầu mỏ thuộc tổ chức OPEC được tổ chức mỗi năm hai lần nhằm đánh giá thị trường dầu mỏ và đề ra các biện pháp phù hợp để bảo đảm việc cung cấp dầu.

Bộ trưởng các nước thành viên thay nhau theo nguyên tắc xoay vòng làm chủ tịch của tổ chức hai năm một nhiệm kỳ. Mục tiêu chính thức được ghi vào hiệp định thành lập của OPEC là ổn định thị trường dầu thô, bao gồm các chính sách khai thác dầu, ổn định giá dầu thế giới và ủng hộ về mặt chính trị cho các thành viên khi bị các biện pháp cưỡng chế vì các quyết định của OPEC.

Nhưng thật ra nhiều biện pháp được đề ra lại có động cơ bắt nguồn từ quyền lợi quốc gia, thí dụ như trong các cơn khủng hoảng dầu, OPEC chẳng những đã không tìm cách hạ giá dầu mà lại duy trì chính sách cao giá trong thời gian dài. Mục tiêu của OPEC thật ra là một chính sách dầu chung nhằm để giữ giá. OPEC dựa vào việc phân bổ hạn ngạch cho các thành viên để điều chỉnh lượng khai thác dầu, tạo ra khan hiếm hoặc dư dầu giả tạo nhằm thông qua đó có thể tăng, giảm hoặc giữ giá dầu ổn định. Có thể coi OPEC như là một liên minh độc quyền (cartel) luôn tìm cách giữ giá dầu ở mức có lợi nhất co các thành viên.

2. OPEC tiếng Anh là gì?

OPEC tiếng Anh là Organization of Petroleum Exporting Countries

The Organization of the Petroleum Exporting Countries (OPEC) is a permanent, intergovernmental Organization, created at the Baghdad Conference on September 10–14, 1960, by Iran, Iraq, Kuwait, Saudi Arabia and Venezuela. The five Founding Members were later joined by: Qatar (1961) – terminated its membership in January 2019; Indonesia (1962) – suspended its membership in January 2009, reactivated it in January 2016, but decided to suspend it again in November 2016; Libya (1962); United Arab Emirates (1967); Algeria (1969); Nigeria (1971); Ecuador (1973) – suspended its membership in December 1992, reactivated it in October 2007, but decided to withdraw its membership effective 1 January 2020; Angola (2007); Gabon (1975) – terminated its membership in January 1995 but rejoined in July 2016; Equatorial Guinea (2017); and Congo (2018). OPEC had its headquarters in Geneva, Switzerland, in the first five years of its existence. This was moved to Vienna, Austria, on September 1, 1965.

OPEC’s objective is to co-ordinate and unify petroleum policies among Member Countries, in order to secure fair and stable prices for petroleum producers; an efficient, economic and regular supply of petroleum to consuming nations; and a fair return on capital to those investing in the industry.

3. Mục tiêu hoạt động của OPEC

Mục tiêu hoạt động chính thức của OPEC được ghi trong Qui chế Thành lập của tổ chức là điều phối và thống nhất chính sách khai thác dầu giữa các nước thành viên nhằm ổn định giá dầu thế giới ở mức công bằng và ổn định cho các nước sản xuất, đảm bảo nguồn cung dầu hiệu quả, kinh tế và thường xuyên cho các nước tiêu dùng, đảm bảo mức lợi nhuận công bằng cho các nhà đầu tư, qua đó bảo vệ lợi ích của các nước thành viên.

Xem thêm: NATO là gì? Giới thiệu về Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO)

Nói cách khác, về bản chất, OPEC chính là một cartel (liên minh kinh tế) giữa các nước sản xuất dầu lửa nhằm duy trì một cơ cấu giá có thể phản ánh được lợi ích của các nước thành viên thông qua việc phối hợp định giá và xây dựng hạn ngạch sản xuất cho các nước thành viên.

4. Lịch sử hình thành và phát triển của OPEC

Vào ngày 10-14/9/1960, theo sáng kiến của Bộ trưởng Bộ Năng lượng và Mỏ Venezuelan Juan Pablo Pérez Alfonso và bộ trưởng Bộ Năng lượng và Mỏ Ả Rập Xê Út Abdullah al-Tariki, các chính phủ Iraq, Iran, Kuwait, Ả Rập Xê Út và Venezuela nhóm họp tại Baghdad để thảo luận các phương án nhằm tăng giá dầu thô sản xuất ở các quốc gia này.

OPEC được thành lập nhằm thống nhất và phối hợp các chính sách về dầu mỏ của các quốc gia thành viên. Giữa năm 1960 và 1975, tổ chức này đã mở rộng bao gồm các thành viên mới như Qatar (1961), Indonesia (1962), Libya (1962), Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (1967), Algérie (1969), và Nigeria (1971). Ecuador và Gabon trước đây từng là thành viên của OPEC, nhưng Ecuador đã rút lui ngày 31/12/1992 do không thể chi trả 2 triệu đô la phí thành viên và có nhu cầu sản xuất nhiều dầu hơn chỉ tiêu mà OPEC cho phép, dù vậy họ gia nhập trở lại vào tháng 10/2007. Các mối quan tâm tương tự cũng đã thúc đẩy Gabon ngừng làm thành viên vào tháng 1/1995. Angola gia nhập đầu năm 2007. Na Uy và Nga tham dự các hội nghị của OPEC với tư cách là quan sát viên.

Tháng 5/2008, Indonesia tuyên bố rời khỏi OPEC khi hết hạn thành viên và vào cuối năm đó, nước này trở thành quốc gia nhập khẩu dầu và không thể đạt được chỉ tiêu sản xuất dầu. 1 bản tuyên bố do OPEC đưa ra ngày 10/9/2008 đã xác nhận Indonesia rút khỏi tổ chức này, trong đó có đoạn “thật tiếc là chúng tôi phải chấp nhận mong muốn của Indonesia để dừng tư cách thành viên trong Tổ chức OPEC và hy vọng rằng Quốc gia này sẽ sẵn sàng gia nhập trở lại trong một tương lai không xa.”

5. Công cụ điều chỉnh sản lượng dầu của OPEC

Công cụ chính được OPEC sử dụng để điều chỉnh sản lượng dầu bán ra thị trường của các nước thành viên chính là hạn ngạch sản xuất. Đại diện các quốc gia thành viên nhóm họp mỗi năm 2 lần nhằm thiết lập chính sách sản xuất chung trong tương lai dựa trên dự báo toàn cầu về cung và cầu dầu lửa. Mỗi hội nghị OPEC đều đặt ra hạn ngạch sản xuất mới, chia theo tỉ lệ tương ứng cho các quốc gia thành viên.

Cam kết của các nước thành viên đối với hạn ngạch sản xuất không phải lúc nào cũng nhất quán, và một số nước thành viên OPEC, đặc biệt là những nước có sản lượng nhỏ, thường xuyên vượt quá hạn ngạch được phép của mình.

Các thành viên có sản lượng lớn, đặc biệt là Ả Rập Xê Út, thường phải cắt giảm sản lượng của mình để bù cho việc sản xuất quá hạn ngạch của các thành viên khác. Việc giá dầu sụt giảm giữa những năm 1980 và cuối những năm 1990 một phần là do các thành viên thiếu cam kết trong việc tuân thủ hệ thống hạn ngạch.

6. OPEC trong giai đoạn hiện nay

Ngành công nghiệp dầu mỏ ngày nay mang những đặc điểm của một mô hình đa nhân tố. Có một số nhân tố quan trọng, song không một nhân tố nào có thể một mình duy trì được sự ổn định của thị trường. Tầm quan trọng của OPEC đã suy giảm sau giai đoạn được xem là đỉnh cao của tổ chức này vào giữa những năm 1970, nhưng chưa có một tổ chức nào có đủ khả năng để thay thế nó.

Xem thêm: Quyền năng của tổ chức quốc tế liên chính phủ là quyền năng phái sinh và hạn chế

Sự suy giảm về tầm quan trọng của OPEC cũng đi kèm với nỗ lực chung của thế giới trong việc tiết kiệm năng lượng và tìm kiếm các nguồn năng lượng thay thế. Trong cơ cấu doanh nghiệp của ngành, các công ty quốc doanh hiện giữ vai trò chủ đạo. Theo Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (US Energy Information Administration), tính đến thời điểm năm 2007, xấp xỉ 78% sản lượng dầu thế giới do 50 công ty sản xuất, 70% số sản lượng này được sản xuất bởi các công ty dầu mỏ quốc doanh.

Các hoạt động chính trong lĩnh vực dầu mỏ của OPEC

– 14 tháng 9 năm 1960: thành lập tổ chức theo đề xuất của Vênêxuêla tại Bátđa.

– 1965: Dời trụ sở về Viên. Các thành viên thống nhất một chính sách khai thác chung để bảo vệ giá.

– 1970: Nâng giá dầu lên 30%, nâng thuế tối thiểu áp dụng cho các công ty khai thác dầu lên 55% của lợi nhuận.

– 1971: Nâng giá dầu sau khi thương lượng với các tập đoàn khai thác. Tiến tới đạt tỷ lệ quốc gia hóa 50% các tập đoàn.

– 1973: Tăng giá dầu tăng từ 2,89 USD một thùng lên 11,65 USD. Thời gian này được gọi là cuộc khủng hoảng dầu lần thứ nhất, OPEC khai thác 55% lượng dầu của thế giới.

– 1974 đến 1978: tăng giá dầu 5-10% hầu như mỗi nửa năm một lần để chống lại việc USD bị lạm phát.

Xem thêm: Mục đích và nguyên tắc hoạt động của Tổ chức thương mại quốc tế WTO

– 1979: Khủng hoảng dầu lần thứ hai. Sau cuộc cách mạng Hồi giáo giá dầu từ 15,5 USD một thùng được nâng lên 24 USD. Libia, Angiêri và Irắc thậm chí đòi đến 30 USD cho một thùng.

– 1980: Đỉnh điểm chính sách cao giá của OPEC. Lybi đòi 41 USD, Ả Rập Saudi 32 USD và các nước thành viên còn lại 36 USD cho một thùng dầu.

– 1981: Lượng tiêu thụ dầu giảm do các nước công nghiệp lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế và bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng dầu lần thứ nhất, do giá dầu cao, nhiều nước trên thế giới đầu tư vào các nguồn năng lượng khác. Lượng tiêu thụ dầu thế giới giảm 11% trong thời gian từ 1979 đến 1983, thị phần dầu của OPEC trên thị trường thế giới giảm xuống còn 40%.

– 1982: Quyết định giảm lượng sản xuất tuy được thông qua nhưng lại không được các thành viên giữ đúng. Thị phần của OPEC giảm xuống còn 33% và vào năm 1985 còn 30% trên tổng số lượng khai thác dầu trên thế giới. Lượng khai thác dầu giảm xuống đến mức thấp kỷ lục là 17,34 triệu thùng một ngày.

– 1983: Giảm giá dầu từ 34 USD xuống 29 USD một thùng. Giảm hạn ngạch khai thác từ 18,5 triệu xuống 16 triệu thùng một ngày.

– 1986: Giá dầu rơi xuống đến dưới 10 USD một thùng do sản xuất thừa và do một số nước trong OPEC giảm giá dầu.

– 1990: Giá dầu được nâng lên trong tầm từ 18 đến 21 USD một thùng. Nhờ vào chiến tranh vùng Vịnh giá dầu đạt ở mức cao.

– 2000: Giá dầu đã dao động mạnh, vượt qua cả hai mức thấp và cao nhất trong lịch sử. Nếu trong quý I, chỉ với 9 USD người ta cũng có thể mua được một thùng dầu thì trong quý IV giá đã vượt trên 37 USD một thùng. Các thành viên của OPEC đồng ý giữ giá dầu ở mức 22-28 USD/thùng.

Xem thêm: ASEAN là gì? Chức năng và vai trò của hiệp hội các nước Đông Nam Á ASEAN

– 2005: OPEC quyết định giữ nguyên lượng khai thác 27 triệu thùng. Các thành viên đã nhất trí “tạm ngưng” không giữ giá dầu ở mức 22-28 USD/thùng.

Sau một thời gian dài từ năm 2007, giá dầu mỏ liên tục tăng, có thời điểm đạt mức xấp xỉ 150 USD/thùng, hiện nay (8-2008) giá dầu đang đứng ở mức trên dưới 110 USD/thùng.

Như vậy, trong bài viết trên, chúng tôi đã trình bày một số thông tin về tổ chức OPEC. Trường hợp cần tư vấn, hỗ trợ thêm bất kỳ thông tin nào khác có liên quan, Quý khách hàng vui lòng liên hệ trực tiếp Công ty luật TNHH Dương Gia để được giải đáp.