Giáo lý hôn nhân mục đích hôn nhân là gì năm 2024
Ngày nay, việc nâng cấp giáo lý cho giáo dân là một việc cần thiết, nhất là cho các đôi tân hôn. Tuy sách giáo lý hôn nhân đã có nhiều, mỗi tập nói về một khía cạnh của tình yêu đôi bạn, của đời sông hôn nhân, chúng tôi cũng xin góp một phần về khía cạnh thần học luân lý để các giáo lý viên có thêm tài liệu giúp các bạn trẻ bước vào đời sống hôn nhân. Tất nhiên không thể đầy đủ như một sách giáo khoa. Mong các giáo lý viên thông cảm cho những thiếu sót của chúng tôi. Và rất mong được sự đóng góp của mọi người thiện chí. Chúng tôi rất chân thành cảm ơn. ĐỨC NAM Show BÀI 1. HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH Và Thiên Chúa phán : “Ta hãy làm ra con người theo hình ảnh Ta, như họa ảnh của Ta. Chúng hãy trị trên cá biển và chim trời, và trên súc vật và mọi loài mãnh thú và mọi thứ côn trùng nhung nhúc trên đất”. Và Thiên Chúa dựng nên con người theo hình ảnh mình. Theo hình ảnh của Thiên Chúa, Người đã dựng nên nó. Là nam là nữ, Người đã dựng nên chúng. Và Thiên Chúa đã chúc lành cho chúng và Thiên Chúa đã phán bảo chúng : Hãy sinh sôi nẩy nở và hãy nên đầy dẫy trên mặt đất và hãy làm chủ nó ! Hãy trị trên cá biển và chim trời và mọi loài sinh vật nhung nhúc trên đất. Và Thiên Chúa đã phán : “Này Ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ sinh hạt giống có trên cả mặt đất, và mọi thứ cây có quả sinh hạt giống, chúng sẽ làm của ăn cho các ngươi”. (St 1, 26-29). 1. Hôn nhân là gì ? – Là một giao ước giữa một người nam và một người nữ, làm thành một cộng đoàn cho cả cuộc đời ; tự bản chất nó hướng tới lợi ích của những người phối ngẫu cũng như hướng tới việc sinh sản và giáo dục con cái. Giao ước này đã được Chúa Kitô nâng lên hàng bí tích giữa những người đã lĩnh nhận phép rửa tội. – Nói cách khác : Đó là một cộng đồng yêu thương của hai kẻ xa lạ, hai kẻ vốn được Thiên Chúa tạo nên với hình thể và bản tính hoàn toàn khác nhau, và được nối kết với nhau chỉ bằng một tình yêu, để cùng gắn bó với nhau trong cuộc sống, trong một trách nhiệm cao cả là cộng tác với Thiên Chúa trong việc truyền sinh, sáng tạo nên con người, để góp phần xây dựng thế giới ngày thêm tốt đẹp. 2. Tình yêu trong hôn nhân có phải là thánh thiện không ? – Tình yêu nói chung và riêng về tình yêu hôn nhân, nếu được hiểu một cách chắc chắn và bền vững thì đó là một sự thánh thiện. Bởi vì Đấng Tạo hóa đã thành lập và ban những định luật riêng cho đời sống chung, nhất là trong đời sống tình yêu vợ chồng. Đời sống chung này được gầy dựng do giao ước hôn nhân, nghĩa là ưng thuận cá nhân không thể rút lui được. Như thế, bởi một hành vi nhân linh (có tự do, có hiểu biết), trong đó hai vợ chồng tự hiến cho nhau và đón nhận nhau, nhờ sự an bài của Thiên Chúa, phát sinh một định chế vững chắc có giá trị trước mặt xã hội nữa. Vì lợi ích của vợ chồng, của con cái và của xã hội nên sợi dây liên kết thánh thiện này không lệ thuộc sở thích của con người. Hơn nữa, chính Thiên Chúa là Đấng tác tạo hôn nhân, phú bẩm những lợi ích và mục tiêu khác nhau, cho nên tình yêu đích thực của hôn nhân là một sự thánh thiện thực sự. 3. Như thế hôn nhân có phải là một ơn gọi không ? Như chúng ta đã thấy, sau khi tạo dựng vũ trụ và vạn vật, Thiên Chúa đã sáng tạo một hữu thể tốt đẹpcao cả nhất mang hình ảnh của Người, đó là dấu ấn của tình yêu thương. Khi đặt con người làm chủ vạn vật, đồng thời Thiên Chúa cũng trao cho con người được quyền và có trách nhiệm duy trì sự hiện hữu của nòi giống mình, hầu đảm bảo vai trò cai quản muôn loài và phụng sự Thiên Chúa bằng sự truyền sinh qua ơn gọi hôn nhân. Khi dựng nên A-đam, Thiên Chúa đã gieo vào lòng ông một cảm nhận cô đơn, một nhu cầu có người chia sẻ, cảm thông với mình. Từ đó Thiên Chúa đã trao tặng ông một món quà quý giá theo nguyện ước của ông : một người vợ để thành lập một gia đình, sinh sản con cái ngày càng nhiều đến nỗi lan tràn khắp mặt đất, và Người đã dùng tình yêu để liên kết hai người nam nữ vào cùng một trọng trách ấy. 4. Đâu là dấu hiệu của ơn gọi ? – Ban đầu : Từ khi cất tiếng khóc chào đời, suốt tuổi thơ ấu cho tới tuổi sắp dậy thì, các cô các cậu đã trải qua một cuộc sống bình yên, ngây thơ, hồn nhiên và hạnh phúc bên cha mẹ, anh chị em, bạn bè, và cuộc sống như vậy là đủ… Nhưng đến một giai đoạn nào đó, cậu thanh niên, cô thiếu nữ bỗng nảy sinh một tâm trạng mới lạ : họ không còn nô đùa bên bạn bè. Gia đình hiện tại (cha mẹ, anh chị em…) không còn đủ hấp dẫn nữa. Đến đây họ cảm thấy như thiếu vắng một cái gì trong cuộc đời họ, nhất là sự thiếu vắng trong tâm hồn. Và rồi họ đi tìm cái thiếu vắng đó, nhưng đây mới chỉ là lứa tuổi (giai đoạn) dậy thì mà thôi. – Bước hai : Là bước xuất hiện và phát triển ơn gọi hôn nhân. Bỗng một ngày nào đó, cậu thiếu niên, cô thiếu nữ bước qua ngưỡng cửa mười tám, đôi mươi, và đột nhiên bắt đầu muốn yêu và được yêu. Đến đây, cả thể xác và tinh thần đều được phát triển đầy đủ, và rồi sự lựa chọn bạn đời không còn là một chuyện mơ hồ nữa, mà là một việc làm thực sự. Chính ở giai đoạn này, tuổi thanh niên cần được các bậc cha mẹ và những người có trách nhiệm hướng dẫn một cách đúng đắn và đúng hướng. – Ở họ, tuổi nào thì đôi bạn đi đến hôn nhân là tốt đẹp? Điều đó còn tùy thuộc vào phong tục, tập quán của từng nơi một (người châu Á khác người châu Âu, châu Mỹ…). Nhưng điểm chung nhất, theo các nhà tâm lý hiện nay thì đối với người nữ là tuổi 21. Vì đây là thời kỳ mà người phụ nữ phát triển đến mức trọn hảo, về cả thể xác cũng như tinh thần. Đối với người nam là tuổi 28. Ởí tuổi đó, người đàn ông mới hội đủ sự khôn ngoan chín chắn để làm chồng, làm cha. – Cuối cùng : Chúng ta nên sống đúng ơn gọi của mình. Đừng nghĩ hôn nhân không có ơn gọi, hay chỉ là một việc làm thuần túy tâm-sinh-lý… Chúng ta nên biết rằng : dù là hôn nhân hay đời tu, cũng đều là ơn gọi vào những nhiệm vụ cao cả là phục vụ Chúa và phục vụ nhân loại, chỉ khác ở cách phục vụ mà thôi. BÀI 2. BẢN CHẤT CỦA HÔN NHÂN “Cộng đồng sâu xa của cuộc sống và tình yêu giữa cặp vợ chồng đã được thành lập với những luật lệ riêng của nó bởi Đấng Tạo Hóa. Chính Thiên Chúa là tác giả của cuộc hôn nhân. Ơn gọi của hôn nhân, đã được in sâu vào bản tính của người nam và người nữ, theo như họ đã được tạo thành do bàn tay của Đấng Sáng Tạo. Hôn nhân không phải là cơ chế thuần túy nhân loại, mặc dầu có những biến thái rất nhiều của hôn nhân qua dòng các thế kỷ, trong những nền văn hóa khác nhau, những cơ cấu xã hội khác nhau và những thái độ tinh thần khác nhau. Những sự khác nhau này không làm chúng ta quên những nét chung và trường tồn. Tuy phẩm giá của định chế này không xuất hiện cách rõ ràng như nhau ở khắp mọi nơi, nhưng nơi tất cả các nền văn hóa vẫn có một ý thức nào đó đối với sự cao cả của việc kết hôn, của sự hiệp nhất của hôn nhân. Bởi vì của con người và của xã hội liên kết chặt chẽ với sự phồn vinh của cộng đoàn hôn nhân và gia đình” (GLGHCG, số 1063). 1. Hôn nhân có phải là một việc làm tự nhiên của con người không ? Trong thiên nhiên có luật âm dương. Âm dương là hai lực đối lập nhau, nhưng lại thu hút nhau để tạo nên sự hài hòa của vạn vật. Ở mỗi cấp sinh vật cũng có luật âm dương này. Do đó, người nam và người nữ cảm thấy thu hút lẫn nhau, đó là một hiện tượng hết sức bình thường. Vậy khi con người hiểu được việc hôn nhân và thực hiện việc hôn nhân đúng cách, thì con người sẽ được hưởng một sức mạnh tổng hợp do hai loại “lực”, tự bản chất là khác nhau nhưng trong thực tế lại bổ túc cho nhau. 2. Hôn nhân là một sinh hoạt của con người, do đó đòi hỏi phải có : lý trí và tự do. Con người là một động vật có lý trí và do đó có tự do. Nên trong vấn đề hôn nhân đòi hỏi phải sử dụng hai khả năng này.
BÀI 3. THÀNH LẬP HÔN NHÂN Yavê Thiên Chúa đã phán : “Không tốt, nếu con người chỉ có một mình. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó”. Và Yavê Thiên Chúa đã nắn ra từ đất đai mọi thứ dã thú và mọi giống chim trời và Người dẫn đến cho con người để xem nó gọi làm sao. Và mọi mạng sống hễ người gọi sao thì tên là vậy. Và người đã đặt tên cho mọi thú vật và chim trời cùng mọi dã thú. Nhưng phần con người, nó vẫn không gặp được vật trợ giúp tương xứng. Và Yavê Thiên Chúa đã giáng xuống trên con người một giấc tê mê, và nó đã ngủ thiếp đi. Và Thiên Chúa đã rút lấy một xương sườn của nó, đoạn lấp thịt vào. Và trên sườn đã rút tự con người, Yavê Thiên Chúa đã xây thành người đàn bà. Đoạn Người dẫn đến với con người. Và nó đã nói : “Phen này nàng là xương tự xương tôi, thịt tự thịt tôi. Nàng sẽ đổi danh là ‘đàn bà’ vì đã được rút tự ‘đàn ông’. Bởi thế mà đàn ông sẽ bỏ cha mẹ và khăng khít với vợ mình và chúng sẽ nên một thân xác. (St 2, 18-24). 1. Ai đã thành lập hôn nhân ?
BÀI 4. CHÚA GIÊ-SU CẢI TẠO HÔN NHÂN “Những người Pharisiêu đến gần Chúa Giê-su để thử Người. Họ nói : “Thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không ?”. Người đáp : “Các ông không đọc thấy điều này sao : thuở ban đầu, Đấng Tạo Hóa đã làm ra con người có nam có nữ, và Người đã phán : “Vì thế người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt”. Như vậy họ không còn là hai, nhưng chỉ là mọt xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19, 3-6). Như thế ngay từ đầu, chính Thiên Chúa là Đấng thiết lập hôn nhân. Nhưng vì con người đã lạm dụng và đi quá xa, nên Chúa Giê-su đã phải cải tạo lại hôn nhân. 1. Dựa vào đâu để nói rằng do tội lỗi mà hôn nhân bị lạm dụng ? Theo đức tin, những sự lộn xộn đau lòng này không do bản tính người nam và người nữ, cũng không do bản chất những quan hệ của hai người với nhau, nhưng do tội. Tội là sự đoạn tuyệt với Thiên Chúa, tội nguyên thủy của con người đã có hậu quả số một là sự cắt đứt mối hiệp thông nguyên thủy giữa người nam và người nữ. Các quan hệ giữa hai người bị bẻ cong bởi những lời trách móc lẫn nhau ; vẻ quyến rũ nhau, hồng ân của Đấng Sáng tạo, đã biến thành những quan hệ của sự thống trị và của nhục dục, và ơn gọi tốt lành của cặp nam nữ là sinh nhiều con cái, tăng thêm nhân số, và thống trị trái đất đã phải gánh chịu những cực nhọc của việc sinh nở và của kế sinh nhai. 2. Chúa Giê-su đã làm gì để cải tạo hôn nhân ? Trong khi giảng dạy, Chúa Giê-su đã nói một cách rõ ràng về ý nghĩa nguyên thủy của sự phối hợp giữa người nam và người nữ, đúng như Đấng Tạo hóa đã muốn từ lúc đầu. Các biệt phái đã nại đến việc tại sao Maisen cho phép ly dị, Chúa Giê-su đã trả lời một cách dứt khoát : Đây là một việc nhân nhượng đối với sự cứng lòng của con người. Nhưng ngay từ đầu, sự phối hợp hôn nhân giữa người nam và người nữ thì không thể tháo cởi được vì “điều gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”. 3. Với lời tuyên bố của Chúa Giê-su, sự bất khả phân ly đã trở thành luật phải không ? Với tư cách là vị Thiên Sai, Chúa Giê-su xuống lập đạo mới. Đạo mới hoàn hảo hơn đạo cũ. Hơn nữa sứ mạng của Chúa Giê-su là nhằm đem lại hạnh phúc cho con người. Chính Chúa Giê-su cũng đã tuyên bố : Người xuống để kiện toàn lề luật chứ không để bãi bỏ luật (Mt 5, 17-19). Do đó, nhờ có luật này (vĩnh hôn) mà con người mới được sống hạnh phúc thật trong gia đình, để gia đình trở nên nhân chứng cho Thiên Chúa ở giữa đời. Luật đó tồn tại mãi và không hề thay đổi. BÀI 5. NHỮNG ĐIỀU PHẢI CÓ ĐỂ ĐI ĐẾN HÔN NHÂN Trên giường suốt cả đêm dài, tôi kiếm người tôi yêu dấu. Tôi kiếm chàng nhưng không gặp. Thôi ! Chỗi dậy nào ! Ta phải rảo quanh thành, ngõ hẻm với các quảng trường. Tôi phải kiếm cho ra người yêu dấu của lòng tôi… Tôi đi kiếm chàng nhưng không gặp. Quân canh gặp tôi, họ đi tuần thành. “Các ông có thấy người tôi yêu dấu ?”. Vừa đi qua họ một quãng, tôi đã gặp người tôi yêu dấu (Dc 3, 1-19). Hôn nhân là một việc làm hết sức hệ trọng, không chỉ một ngày, một tháng, một năm…, nhưng là suốt cả cuộc đời của cả hai người. Để có được hạnh phúc và một cuộc sống gia đình tốt đẹp thực sự, hai người cần phải suy nghĩ, tìm hiểu rồi mới đi đến quyết định. 1. Trước khi đi đến quyết định, cần phải :
BÀI 7. GIÁ TRỊ CỦA HÔN NHÂN Thiên Chúa đã sáng tạo con người vì tình yêu, thì cũng kêu gọi con người tới tình yêu, một ơn gọi nền tảng và bẩm sinh của mọi con người, vì con người đã được sáng tạo giống hình ảnh của Thiên Chúa, và bản thân Người là Tình Yêu. Thiên Chúa đã tạo thành con người có nam có nữ, nên tình yêu của hai người đối với nhau là hình ảnh của tình yêu tuyệt đối và bất diệt mà Thiên Chúa dành cho con người. Tình yêu này tốt lành, rất tốt lành đối với Đấng Tạo hóa. Và tình yêu này đã được Thiên Chúa chúc phúc để trở nên sai trái và được thực hiện trong công cuộc chung là bảo vệ sáng tạo của Thiên Chúa : “Và Thiên Chúa chúc lành cho họ và bảo họ rằng : hãy sinh sôi nẩy nở và hãy trở nên nhiều, tràn đầy mặt đất và hãy làm chủ trái đất” (GLCG, số 1064). 1. Tại sao nói hôn nhân là một đời sống có giá trị ? Hẳn thật, đây là một đời sống rất có giá trị, bởi vì chính Thiên Chúa đã thiết lập hôn nhân và truyền cho con người phải sinh sản để giữ lấy tông giống. Và Chúa Giê-su đã nhấc hôn nhân lên hàng bí tích để nhằm thánh hóa đôi bạn và để chúng ta thấy được gía trị siêu nhiên của đời sống gia đình. 2. Vì sao nói được hôn nhân lại nằm trong chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa ? Con người được Thiên Chúa tạo dựng có nam có nữ và được kết hợp với nhau nên một, mặc dầu có sự khác biệt nhau về mặt tâm sinh lý và chức năng xã hội, nhưng chính sự khác biệt đó là để bổ túc cho nhau và làm cho sự kết hợp được hài hòa và giúp con người hoàn thiện trách nhiệm của mình. Đó là dự kiến của Chúa quan phòng, và đời sống kết hợp vợ chồng đều nằm trong chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa. Một điểm nữa không kém phần quan trọng giúp chúng ta nhìn nhận rõ hơn về hôn nhân trong chương trình cứu độ : trước khi ông bà sa ngã, đời sống đôi bạn thật đơn sơ, trong sáng. Sau khi phạm tội, hai người mới thấy quan hệ với nhau và với Chúa mất đi cái thế hồn nhiên và hạnh phúc trước kia. Nhưng nhờ việc nhập thể, quan hệ nam nữ tìm lại được trật tự xưa. Từ đây, thân xác và phái tính được giải phóng khỏi tà dục và sa đọa : “Thân xác không phải dành cho dâm dật mà là cho Chúa. Anh em đã được mua chuộc giá cả hẳn hoi. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân mình anh em” (1Cr 16, 13). 3. Giáo Hội nhìn nhận giá trị hôn nhân như thế nào ? Giáo Hội do Chúa Giê-su thiết lập và được trao cho sứ mệnh thánh hóa mọi người. Công đồng Vatican II nhận định : Hôn nhân là cộng đoàn thắm thiết của vợ chồng chung sống và chung tình do Tạo hóa thiết lập và định cho những luật riêng. Cộng đoàn đó được gầy dựng do đôi bạn kết ước với nhau, đích thân ưng thuận lấy nhau ; sự ưng thuận này không thể rút lại được. Nhờ thế họ hiến mình cho nhau và đón nhận nhau. Như thế nhờ giao ước hôn nhân nam nữ không còn là hai, nhưng là một xương một thịt. ĐGH Piô XI cũng đã ban bố một thông điệp về đời sống hôn nhân là “Sự thanh khiết của hôn nhân”. Thông điệp nói lên giá trị và sứ mệnh cao qúy ấy như sau : “Muốn đánh giá đặc ân Thiên Chúa ban cho kẻ ở bậc vợ chồng, chỉ cần biết đến danh phận mục đích của loài người : vì có trí khôn, loài người trổi các vật hữu hình khác. Thiên Chúa dựng nên loài người không phải chỉ để sinh sôi nẩy nở trên mặt đất mà thôi, mà còn để họ nhìn nhận, tôn thờ, kính mến Người ở đời này, và được hưởng hạnh phúc đời sau”. BÀI 8. ĐẶC TÍNH DUY NHẤT CỦA HÔN NHÂN Những người Pharisiêu đến gần Chúa Giê-su để thử Người. Họ nói : “Thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không ?” – Người đáp : “Các ông không đọc thấy điều này sao : thuở ban đầu Đấng Tạo hóa đã làm ra con người có nam có nữ, và Người đã phán : Vì thế người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”. (Mt 19, 36). Với lời tuyên bố của Chúa Giê-su và qua lịch sử của Giáo Hội, giáo lý Công giáo dạy chúng ta : hôn nhân Công giáo gồm hai đặc tính : Duy nhất (đơn hôn) và bất khả phân ly (vĩnh hôn). Giáo luật điều 1056 nói : những đặc tính căn bản của hôn phối là sự duy nhất và bất khả phân ly. Nhờ tính cách bí tích, những đặc tính được kiện toàn trong hôn phối kitô giáo. 1. Duy nhất là gì ? Là chỉ có một vợ một chồng, không thể có nhiều vợ hay nhiều chồng. 2. Bất khả phân ly là thế nào ? Là hai người phải chung thủy với nhau cho đến chết, không được chia lìa nhau để đi lập gia đình khác khi người bạn của mình còn đang sống. 3. Hiểu thế nào về sự duy nhất ? Duy nhất trong hôn nhân được hiểu là một sự hợp nhất trung tín không thể phân chia. Khế ước hôn nhân đã làm nên một xác thịt chứ không còn là hai. Hai người được mời gọi lớn lên không ngừng trong sự hiệp thông với nhau qua việc trung thành mỗi ngày với lời cam kết hôn nhân và trao hiến trọn vẹn cho nhau. Đó là tình yêu duy nhất không dành cho ai. 4. Hiểu thế nào về bất khả phân ly ? Đây là việc của hai người tự hiến cho nhau cũng như lợi ích của con cái buộc họ phải hoàn toàn trung tín và đòi hỏi kết hợp với nhau cho đến khi một trong hai chết. Chính Thiên Chúa cũng muốn như vậy và Người ban ơn này như kết quả, dấu chỉ và đòi hỏi của tình yêu tuyệt đối trung thành mà Thiên Chúa có đối với con người và tình yêu Chúa Giê-su tỏ ra với Hội Thánh. Một điểm nổi bật đối với đôi bạn kitô hữu : ơn bí tích là một ơn gọi, đồng thời là một lệnh truyền phải trung thành mãi mãi bất chấp các thử thách và khó khăn. Với một lòng quảng đại tuân theo ý Chúa : “Điều Thiên Chúa phối hợp loài người không được phân ly”, đôi bạn phải làm chứng cho lời cam kết của mình ; hơn nữa nhằm làm chứng cho giáo lý của Giáo Hội và đề cao điểm sáng của giáo lý Công giáo cho thế giới hôm nay. 5. Nghĩ sao về vấn đề ly dị trong thời đại hôm nay ? Quả thực, ly dị đang là một vấn đề thời sự nóng bỏng trên khắp toàn cầu cũng như ở Việt Nam. Ly dị đang dần dần và hầu như đã trở thành phổ biến, vì người ta cứ nghĩ rằng “cơm chẳng lành canh chẳng ngọt” thì đôi bạn chia tay là hơn. Trái lại, giáo lý và đức tin dạy ta : ngay từ đầu, Thiên Chúa đã thánh hiến lời giao ước giữa người nam và người nữ. Chúa Giê-su một lần nữa cho ta thấy nội dung chuẩn tắc của một sự kiện có từ đầu và mãi mãi duy trì bản chất của nội dung đó. Sở dĩ Thầy Chí Thánh xác nhận nó lúc này, là để minh định một cách sáng tỏ trước ngưỡng cửa của giao ước mới, tính chất bất khả phân ly của hôn nhân, như là nền tảng của lợi ích gia đình. 6. Ly hôn sẽ mang lại những tai hại nào cho gia đình ? Tai hại đầu tiên là làm đổ vỡ hạnh phúc gia đình : vợ, chồng, con cái bị ly tán. Sự ly tán này không những chỉ gây nên sự suy sụp về vật chất mà còn kéo theo sự suy sụp về tinh thần, thêm vào đó là đời sống đức tin bị lung lay. Tai hại thứ hai là danh phận của người phụ nữ bị khinh rẻ. Trong cuộc sống gia đình, một mặt, người vợ sống phó thác toàn thân cho chồng, không chỉ để sinh dưỡng con cái mà còn để nương tựa chồng, một mặt vợ là người bạn đời của chồng nên họ có quyền yêu chồng và được chồng yêu lại suốt đời. Để người vợ khỏi bị bỏ rơi lâm vào thế cùng của cuộc sống, người chồng không những thực sự là chỗ dựa, để nâng đỡ mà còn đảm bảo danh dự cho người vợ. Tai hại thứ ba : ly hôn là một tệ nạn của xã hội do tính ích kỷ và bệnh trụy lạc của con người gây ra. ĐGH Lêô XIII đã nói : “Không ai nói hết những tai hại do tật ly hôn đem lại cho xã hội : hôn ước bị bỏ rơi, tình yêu cạn tắt, tín nghĩa phai lạt, gia đình tan vỡ, họ hàng bất thuận, danh phận người phụ nữ sa sút. Không gì có sức phá đổ gia đình, tiêu hủy xã hội bằng những đồi phong bại tục. Tật ly hôn là con đẻ của sự suy đồi luân lý, nó xô đẩy bao người sa hố trụy lạc trong đời sống công và tư. Tật ly hôn là kẻ thù số một của hạnh phúc gia đình, của thịnh vượng xã hội”. 7. Nghĩ thế nào về vấn đề ly thân ? Ly thân chỉ cho phépvợ chồng sống riêng rẽ, nhưng không được tái hôn, xét vì họ còn bị ràng buộc bởi dây hôn phối. Được phép ly thân vì những lý do sau đây, nhưng phải có sự chấp thuận của Bản quyền sở tại : + Vì đời sống chung quá nặng nề, nguy hiểm cho phần rỗi cả đôi bên kể cả về đời sống phần xác nữa. + Nhưng ly thân chứ không được ly hôn, nghĩa là dây hôn phối vẫn còn, và đôi bên còn có trách nhiệm giáo dục và chu cấp cho con cái. + Mỗi bên không được tái giá, nếu khi có điều kiện thì hai bên phải làm hết sức mình để hòa giải với nhau, và người này phải vui lòng đón nhận cũng như tha thứ cho người kia để có thể sống cuộc sống chung. Vấn đề ly thân rất hữu hạn và hết sức khó khăn. Vậy đây không phải là biện pháp tối ưu mà chỉ là một phương thế tạm thời mà thôi. BÀI 9. BÍ TÍCH HÔN PHỐI “Gắn bó với giáo lý của Thánh Kinh, với các truyền thống Tông Đồ (…) và với tâm tình nhất trí của các Giáo phụ”, chúng ta tuyên xưng rằng “tất cả các bí tích của lề luật mới đều đã do Chúa Kitô thiết lập”. Các lời nói và các hành động của Chúa Giê-su trong quãng đời ẩn dật và trong thừa tác vụ công khai của Người đã có tính chất cứu độ, bởi vì đã thể hiện trước quyền năng của mầu nhiệm Vượt qua của Người. Các lời nói và các hành động đó đã loan báo và đã chuẩn bị cho những gì Người sắp ban cho Giáo Hội khi mọi sự sẽ hoàn tất. Các mầu nhiệm của cuộc đời Chúa Kitô là những cơ sở của những gì mà từ nay Người sẽ phân phát trong các bí tích, qua các thừa tác viên của Giáo Hội người, bởi vì “những gì hữu hình nơi Chúa Cứu Thế đã được chuyển qua các mầu nhiệm của Người”. (GLCG 1114 & 1115). 1. Bí tích là gì ? Thiên Chúa thánh hóa nhân loại bằng nhiều cách, nhiều đường lối, nhưng phương thế bình thường và chủ yếu nhất là các bí tích. Vậy bí tích là những dấu chỉ hữu hiệu (bề ngoài) của ân sủng do Chúa Kitô thiết lập và được trao lại cho Hội Thánh để ban sự sống thần linh cho ta. 2. Chúa Giê-su khi còn sống ở trần gian, Người đã cử hành các bí tích như thế nào ? Xưa khi còn ở trần thế, Đức Giêsu dùng cử chỉ, lời nói để phân phát hồng ân cho những ai đến với Người ; Người trừ tà, chữa bệnh tật, tha tội, thở hơi ban Thánh Thần… Các cử chỉ và lời nói đó cụ thể hóa ân sủng vô hình được ban bên trong. Ngày nay Đức Giêsu vẫn tiếp tục thông ban ân sủng của Người, nhất là ơn cứu chuộc qua những dấu chỉ Người đã lập gọi là bí tích. Chính Đức Giêsu trực tiếp tác động trong các bí tích, linh mục hay thừa tác viên chỉ là trung gian hữu hình. Giáo Hội Công giáo chấp nhận và chỉ chấp nhận có bảy bí tích : Rửa tội, Thêm sức, Thánh Thể, Sám hối, Xức dầu bệnh nhân, Truyền chức thánh và Hôn phối. 3. Bí tích hôn phối là gì ? Bí tích hôn phối là một bí tích biến đổi hai người (nam và nữ) nên một với nhau thành vợ chồng.
BÀI 10. NGHI THỨC CỬ HÀNH BÍ TÍCH HÔN PHỐI “Thật vậy, nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thánh tẩy để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô. Không còn chuyện phân biệt người Do thái hay Hy lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà…” (Gl 3, 26-28). Vào những thời kỳ đầu của Giáo Hội, người kitô hữu chưa có một nghi thức kết hôn riêng. Mãi đến thế kỷ IV, mới xuất hiện một nghi thức kết hôn riêng của kitô giáo, và Giáo Hội đã chính thức chấp nhận một số tập tục. Dần dần, theo thời gian, các nghi thức được kiện toàn và trở thành truyền thống. Sau Công Đồng Vatican II, nghi thức hôn phối được duyệt lại và ban hành vào ngày lễ thánh Giu-se (19-3-1969). Đến 19-3-1990, Bộ Phụng tự cho tái bản nghi thức để thích ứng với nhu cầu mục vụ hiện nay. 1. Nghi lễ hôn phối được diễn tiến như thế nào ? Việc cử hành hôn lễ trong thánh lễ được khuyến khích đặc biệt, không phải để tăng thêm phần long trọng cho bằng nó mang lại một ý nghĩa cao quý : giúp đôi bạn thấy rõ tầm quan trọng và sự cao quý của bậc hôn nhân. Qua thánh lễ, đôi bạn nhận được mẫu gương của Đức Kitô đối với Hội Thánh qua cái chết của Người. Ngoài ra còn gíup cho những người tham dự nhìn lại cuộc sống của gia đình mình. Từ đó ai nấy vui mừng và cầu nguyện cho đôi bạn cũng như cho chính mình. Dù cử hành trong hay ngoài thánh lễ, nghi lễ được diễn ra sau phần phụng vụ Lời Chúa. Để đôi bạn xác nhận với chính mình và với mọi người rằng hành vi của họ là hành vi hoàn toàn nhân linh và trưởng thành, chủ sự sẽ đặt ba câu hỏi : – Sự tự do hoàn toàn ; – Sẵn sàng chấp nhận những bổn phận song phương đối với nhau ; – Trách nhiệm sinh dưỡng con cái theo luật Chúa và Giáo Hội. Sau khi quả quyết “có”, chủ tế mời đôi bạn bắt tay nhau và nói lên sự ưng thuận kết hôn trước mặt đại diện Hội Thánh, hai chứng nhân và cộng đồng. Đây là một việc làm có tính cách công khai và có giá trị pháp lý. Sau lời cam kết của đôi bạn, chủ tế tuyên bố : “Xin Thiên Chúa đoái thương xác nhận sự ưng thuận…” và “Sự gì Thiên Chúa liên kết, loài người không được phân ly”. Amen. Chính lời cam kết công khai của hai người làm thành bí tích hôn phối. Kế đến là trao kỷ vật : chủ tế sẽ làm phép hai chiếc nhẫn của đôi bạn để hai người trao cho nhau làm kỷ vật của một tình yêu bền vững. 2. Để hôn nhân thành sự phải có những điều buộc nào ? Hôn phối là một bí tích, kẻ lĩnh nhận phải có đủ điều kiện theo luật tự nhiên, luật Thiên Chúa và luật Giáo Hội. Các trường hợp sau đây không được phép thành hôn : 10 Một trong hai người còn bị ràng buộc bởi một cuộc hôn nhân trước (GL 1085). 20 Một trong hai người chưa đến tuổi tối thiểu theo luật chung của Hội Thánh, nam 16 và nữ 14 tuổi trọn. Nhưng giáo luật cũng dạy các Hội đồng Giám mục tùy hoàn cảnh mà ấn định tuổi tối thiểu cao hơn, thường không nên trước tuổi dân luật ấn định. 30 Một trong hai người không được tự do, nghĩa là vì sợ hãi hay bị ép buộc mà kết hôn. 40 Một trong hai người, trước khi kết hôn mắc chứng bất lực không thể chữa trị được, tức là không thể có hoạt động sinh lý một cách bình thường (GL 1084). 50 Kẻ mắc ngăn trở tội ác (GL 1090). 60 Kẻ mắc ngăn trở họ máu trực hệ (không kể mấy cấp), và họ máu bàng hệ cho đến hết bậc thứ bốn (GL 1091). 70 Ngăn trở pháp lý giữa những người thân thuộc do dưỡng hệ đã được pháp luật nhìn nhận, trong trực hệ hay trong cấp thứ hai của bàng hệ (GL 1094). 80 Ngăn trở họ kết bạn (GL 1092). 90 Ngăn trở chức thánh hoặc lời khấn (GL 1087, 1088). 100 Ngăn trở hai tôn giáo khác nhau (GL 1086). Ngoài ra, nếu thiếu sự cam kết đích thực của một trong hai bên, thì hôn nhân cũng thành vô hiệu, như các trường hợp sau :
3. Có những trường hợp nào được giáo luật miễn chuẩn không ? Về những ngăn trở do luật Thiên Chúa thì Hội Thánh không được miễn chuẩn gì cả. Còn những ngăn trở do luật Hội Thánh, thì Hội Thánh có quyền miễn chuẩn, và khi được miễn chuẩn thì hôn nhân thành sự, như các trường hợp sau : – về tuổi tối thiểu ; – anh em họ ; – họ kết bạn ; – về tội ác ; – về lời khấn ; – về dị giáo. 4. Có nên kết bạn với những người không cùng đức tin không ? Đối với các cuộc hôn nhân khác tôn giáo, Hội Thánh dè dặt thận trọng chỉ vì yêu thương đôi bạn. Muốn hạnh phúc, vợ chồng phải hòa hợp ; tín ngưỡng là một vấn đề thiết thân của con người, nếu có sự khác biệt, thì dễ có sự xung khắc, đe dọa sự hòa hợp. Kinh nghiệm đã cho thấy rất rõ điều đó ; khi những đứa con ra đời còn thêm nhiều vấn đề khó giải quyết. Tuy nhiên cũng vì tôn trọng tự do, Hội Thánh không cấm đoán ; Hội Thánh hy vọng sự đạo đức của bên này sẽ giáo hóa bên kia. Hội Thánh chỉ dè dặt khôn ngoan để đảm bảo hạnh phúc của vợ chồng được trọn vẹn. BÀI 11. QUYỀN LỢI VÀ NGHĨA VỤ CỦA VỢ CHỒNG “Tình yêu phu phụ gồm toàn thể tất cả những thành tố của con người : sự kêu gọi của thần xác và bản năng, sức mạnh của tình cảm và của âu yếm, khát vọng của tinh thần và của ý chí. Tình yêu này nhằm tới một sự hiệp nhất sâu xa của con người, một sự hiệp nhất vượt quá sự kết hiệp thành một xác thịt để dẫn tới chỗ làm cho hai người chỉ còn là một trái tim và một tâm hồn. Tình yêu này đòi hỏi tính bất khả đoạn tiêu và sự trung thành trong việc trao ban dứt khoát cho nhau, và mở ra về hướng sinh đẻ con cái. Đây là những đặc điểm phải có của bất cứ tình yêu phu phụ nào theo tự nhiên, nhưng có thêm một ý nghĩa mới, không những thanh tẩy và củng cố các đặc điểm kia, nhưng còn nâng cao chúng lêb đến mức chúng được coi là biểu hiện của những giá trị kitô giáo đích thực” (GLCG 1643). 1. Quyền lợi và nghĩa vụ của vợ chồng là song song và song phương. Hưởng quyền lợi và làm nghĩa vụ là hai việc luôn song song với nhau và phải là song phương đối với hai vợ chồng. Cũng có thể nói hai việc là một, vì trong khi hưởng quyền với bạn thì cũng là làm nghĩa vụ với bạn. Hạnh phúc gia đình được bảo đảm tốt là do hai vợ chồng biết tôn trọng quyền lợi của nhau và biết trung thành thi hành các nghĩa vụ đối với nhau. Quyền lợi và nghĩa vụ đó có ba :
BÀI 12. TRÁCH NHIỆM CỦA CHA MẸ “…Cả anh em nữa, hãy từ bỏ tất cả những cái đó : nào là giận dữ, nóng nảy, độc ác, nào là thóa mạ, ăn nói thô tục… Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển chọn, hiến thánh và yêu thương. Vì thế anh em hãy có lòng thông cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau ; nếu trong anh em, người này có điều gì phải trách móc người kia. Người làm vợ hãy phục tùng chồng, như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. Người làm chồng phải yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ. Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa. Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng” (Cl 3, 8-12 ; 13, 18-21). 1. Giá trị con cái trong hôn nhân. Trước khi cầm tay nhau để nói lên lời cam kết, linh mục hỏi : “Anh chị có sẵn sàng yêu thương đón con cái mà Chúa sẽ ban và giáo dục chúng theo luật Chúa Kitô và Hội Thánh không ?”. Câu hỏi đó nhằm xác nhận lại một trong hai mục tiêu quan trọng nhất của hôn nhân. Tình yêu sáng tạo ấy được cụ thể hóa trong đứa con. Đứa con là kết quả của tình yêu vợ chồng. Nhà văn Saint – Exupéry nói : “Yêu không phải là nhìn nhau, nhưng là cùng nhau nhìn về một hướng”. Hướng ấy là hướng sáng tạo ; không sáng tạo tình yêu sẽ chết. Khi nói cha mẹ cần đem lại hạnh phúc cho con cái, ta đừng quên rằng chính cha mẹ cũng được hạnh phúc nhờ con cái. Niềm vui sướng tâm hồn mà đứa con đem lại cho cha mẹ thật lớn lao, bởi vì đứa con là tác phẩm (hoa quả) do tình yêu của họ tác thành. Cha mẹ còn được hạnh phúc nơi đứa con vì nó giúp họ đạt được khát vọng của mình. Họ bắt gặp hình ảnh của mình nơi đứa con. Có những cha mẹ đau khổ vì bệnh tật mà làm cho con cái phải đau khổ… Nên khi đứng trước đứa con của mình, anh chị sẽ không nói “nó là con anh” hay “nó là con em”, nhưng “nó là con chúng ta”. 2. Bổn phận của cha mẹ : nuôi dưỡng con cái. Đối với con cái, cha mẹ có những bổn phận sau đây :
BÀI 13. BỔN PHẬN CỦA CON CÁI “Hỡi các con, hãy nghe lời cha là cha các con đây Các con hãy làm sao để được ơn cứu thoát Vì Chúa đã dạy : các con phải tôn kính cha Và Người đã định các con phải phục quyền mẹ. Kẻ tôn kính cha sẽ được tha thứ tội lỗi Kẻ tôn kính mẹ sẽ chiếm được kho báu Kẻ tôn kính cha sẽ được phúc lộc nơi con cái. Và trong khi khẩn nguyện, họ sẽ được nhậm lời. Kẻ tôn kính cha sẽ được sống lâu Biết an ủi mẹ là người vâng phục Chúa. Biết tôn kính cha là người kính sợ Chúa Và nhìn nhận kẻ sinh thành là chủ để phụng sự. Con hãy tôn kính cha trong hành động và ngôn từ Để đời con được hưởng muôn phúc lộc (…) Hỡi con, hãy nâng đỡ cha con trong tuổi già Bao lâu còn sống, con đừng làm người phải sầu tủi. Tinh thần người có sa sút, con hãy khoan dung với người Con có đương sức cũng đừng khinh dể người. Vì ơn lành làm cho cha không bao giờ bị quên lãng Tội lỗi sẽ được đền bù và nhà con sẽ được phồn vinh. Trong ngày hoạn nạn Chúa sẽ nhớ đến con Như băng giá tan ra khi trời nóng ấm. Tội lỗi con cũng sẽ tan biến như vậy Kẻ từ bỏ cha mình, kể nó là đứa phạm thượng Kẻ nổi nóng mẹ mình, luôn bị Chúa nguyền rủa. (Đức huấn ca 3,1-8.12-16). 1. Chữ hiếu. Gia đình phải là nơi hội đủ các giá trị của con người, vì thế nói đến trách nhiệm của cha mẹ thì không thể bỏ qua bổn phận của con cái. Đừng nên nghĩ rằng lấy được vợ, được chồng là thoát khỏi sự ràng buộc của gia đình, hay nói cách khác, trách nhiệm làm con của mình thế là hết. Nên nhớ rằng muốn làm cha mẹ tốt, trước hết phải biết làm người con tốt đã. Bổn phận người con phải lấy chữ Hiếu làm đầu, cũng gọi là đạo hiếu. Hiếu là biết kính trọng, thương mến và phụng dưỡng cha mẹ. * Dù giàu hay nghèo cũng biết dành lưng cơm lành bát canh ngọt để phụng dưỡng cha mẹ. Hoặc ở xa xôi cách biệt thì gửi đồng quà tấm bánh về kính biếu cha mẹ. Nhưng cũng không thiếu kẻ chỉ biết vợ con, không biết cha mẹ là đâu, nên mới có câu rằng : “Lúc sống thì chẳng cho ăn Để đến khi chết làm văn tế ruồi” * Giáo lý Công giáo ở điều răn thứ IV dạy : “Hãy thảo kính cha mẹ”. Đối với người Công giáo, việc phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già không phải chỉ lo cho các ngài có nơi ăn chốn ở ấm cúng, thuốc thang lúc đau ốm, thăm viếng an ủi khi giá lạnh mà thôi, mà còn phải bảo đảm đời sống kitô hữu cho các ngài, giúp các ngài lĩnh nhận các bí tích khi cần thiết. Tóm lại : cả phần xác và phần hồn, đời này và đời sau. Còn bổn phận người con dâu thì nặng hơn và cũng gặp khó khăn nhiều hơn. Vì thế người con dâu cần biết nhẫn nhục chịu đựng để tránh những va vấp nhỏ nhặt kẻo tai họa xảy ra không lường được. Vậy người chồng phải sáng suốt khôn ngoan trong vấn đề này, để tránh tình trạng thiên lệch (coi vợ quá hay cha mẹ quá) mà phải trung dung để hai bên êm ấm thuận hòa. 2. Tinh thần gia tộc Con người không những chỉ có cha mẹ sinh ra mình và con cái mình sinh ra, mà còn có ông bà tổ tiên và cháu chắt. Ngoài ra còn có họ hàng tộc thuộc và thân thích nội ngoại nữa. Tuy không chung sống cùng một mái nhà, nhưng tất cả làm thành một đại gia đình. “Nước có nguồn, chim có tổ” là thế. Người xưa có câu : “Giọt máu đào còn hơn ao nước lã”. Vì thế tình anh em họ hàng là điều rất đáng quý. Cụ Phan Kế Bính viết : “Anh chị em là bát máu xẻ đôi, tình thân thiết hơn mọi người khác. Trong cách ăn ở, phải yêu mến nhau. Mà muốn cho được hòa mục mãi mãi thì phải lấy chữ nhẫn làm đầu, nghĩa là nhường nhịn nhau, dầu có kẻ nói ngang trái cũng nhịn đi, rồi lấy lời khôn lẽ phải mà khuyên bảo nhau thì không bao giờ đến nỗi khích bác nhau, mặt lăng mày vực với nhau, mà trong nhà vẫn được vui vẻ, cha mẹ cũng được thỏa lòng” (VNPT 1.2). Ngoài ra “anh em dâu rể cũng là anh em!”. Bề nào cũng là người trong quyến thuộc, phải biết lấy chữ ‘nhẫn’ mà đối xử với nhau để tránh hết mọi điều xích mích dè bỉu thật đáng chê ! (Nếp cũ con người Việt Nam, 1970, tr.14). 3. Gia đình trong cõi yêu thương đời đời Các tôn giáo đều dạy tin vào đời sau, tin vào sự bất tử của linh hồn. Riêng Kitô giáo không những dạy như vậy, mà còn dạy cả thân xác loài người cũng sẽ trở thành bất tử sau ngày chung thẩm. Và sau đó là hạnh phúc tức là sống vĩnh cửu, hoặc là trầm luân tức là chết đời đời. Gia đình anh chị không thể thoát khỏi định luật đó. Vậy hãy nhắm đích cuối cùng là sự sống vĩnh cửu. Đời sống gia đình không thiếu những điều sóng gió. Nhưng khi chúng ta tin vào tình yêu Thiên Chúa, thì chính tình yêu ấy bảo đảm cho ta và sẽ đưa ta đến chốn an bình. Chúng ta hãy vững tin, vì Đức Kitô đã cùng khởi hành với ta ; chính Người đợi ta ở điểm đến và nâng đỡ ta suốt cuộc hành trình. Tại điểm hẹn đó, chúng ta sẽ gặp được tất cả mọi người. Tại điểm hẹn đó, vũ trụ do Thiên Chúa tạo thành sẽ được hoàn tất trong Thiên Chúa. Tình yêu hôn nhân và gia đình là công trình của Thiên Chúa Tình Yêu ; tình yêu hôn nhân sẽ được viên mãn trong Tình Yêu Thiên Chúa ; và Cộng Đồng Ba Ngôi Thiên Chúa chí thánh, thành đại gia đình của Chúa Cha, quây quần quanh Đức Giêsu là Anh Cả giữa một đoàn em đông đúc được hợp nhất trong Chúa Thánh Thần. PHU LUC 1. Tư cách của vợ chồng. Gia đình là một xã hội nhỏ, vì thế cần có sự chỉ đạo và sự tuân phục. Điều đó nói lên sự cần thiết phải có để gia đình được hạnh phúc là đời sống có quy củ và trật tự. Thế nhưng sự chỉ đạo ở đây phải theo tinh thần bác ái yêu thương chứ không phải là thi hành quyền bính một cách độc đoán. Muốn thế, cả vợ lẫn chồng phải biết nhẫn nại và hy sinh. Vợ phải vâng phục chồng là đầu, và chồng phải biết nhìn nhận vợ là bạn ngang hàng cùng cộng tác trong mọi công việc. Mỗi người cần biết can đảm hy sinh, biết kiềm chế cá tính riêng của mình. Tự nhiên ai cũng muốn theo ý mình, muốn lựa chọn riêng, muốn quyết định công việc, nhưng phải biết hy sinh để lắng nghe ý bạn và bàn luận cho thống nhất trước khi hành động, không bao giờ được cố chấp bảo thủ. Có như vậy mới tránh được những xung khắc nhau, gây bất hòa và sinh gương xấu cho con cái. Khi công việc không được kết quả tốt đẹp, đừng đổ lỗi cho nhau, mà phải cùng nhau chịu trách nhiệm. 1o Chức năng của người chồng, người cha. Người nam đầu tiên được Thiên Chúa tạo dựng và đặt làm chủ vạn vật đồng thời làm chủ một gia đình, đó là Ađam. Vì thế, người nam được Chúa ban cho một sức manh của thể xác cũng như của tâm hồn để chu toàn chức năng làm chồng làm cha. Vậy chồng phải chu toàn bổn phận đối với vợ, phải hết lòng yêu thương âu yếm che chở, vì vợ luôn coi chồng là kẻ bảo vệ mình : “Nghìn tầm núp bóng tùng quân / Tuyết sương che chở cho thân cát đằng”. Người chồng phải biết giữ thể diện, biết làm đẹp và bảo vệ phẩm giá cho vợ ; ngoài ra còn phải biết giúp đỡ vợ trong công việc phụ của gia đình. Đối với con cái, phải biết chu toàn chức năng làm cha. Trong giáo dục, phải mềm dẻo nhưng cương quyết : không bao giờ được nuông chiều nết xấu con cái ; luôn luôn sống gương mẫu, nhất là về mặt đức tin. Người cha phải biết dạy nghề nghiệp hoặc tạo điều kiện cho con cái học nghề nghiệp và văn hóa đủ theo trình độ và điều kiện. “Con có cha như nhà có nóc” là thế. 2o Chức năng của người vợ, người mẹ. Trái với bản chất của người nam, người nữ được Thiên Chúa dựng nên có thân hình mảnh dẻ và một tâm tình dịu dàng. Họ sống tình cảm hơn là lý trí. Họ thích giải quyết vụ việc bằng trái tim hơn bằng khối óc. Họ thích được nuông chiều và che chở. Vì thế trong gia đình, người vợ là người biết kiên nhẫn và chịu đựng tinh tế hơn cả. Nếu chồng là rường cột thì vợ là dây thân ái ràng buộc mọi người trong yêu thương hạnh phúc. Người vợ thường có khả năng quản lý, quán xuyến công việc nội trợ và bảo vệ gia đình hơn mọi người. Với chức năng làm mẹ, người nữ được cộng tác với Thiên Chúa trong việc truyền sinh. Đứa con ra đời được sống trên bàn tay âu yếm của người mẹ nhiều hơn. Vì thế người mẹ phải biết dạy dỗ con từ lúc còn thơ ấu : “Dạy con dạy thuở nên ba”. Đứa con vừa biết bập bẹ, thì người mẹ phải biết mớm vào tâm hồn đứa trẻ những chân lý đời đời. Mẹ của thánh Gioan Don Boscô, mẹ của thánh Tê-rê-xa Hài đồng Giêsu là những tấm gương làm mẹ thật đáng giá. Người mẹ thường dễ âu yếm vỗ về đứa trẻ, nhưng cũng cần nhớ là đừng bao giờ nuông chiều nó. Đứa trẻ được nuông chiều, khi lớn lên dễ thành khó tính, hay đòi hỏi và khó dạy. 2. Bầu khí thiêng liêng trong gia đình. Bước chân vào một gia đình Công giáo, người ta phải cảm thấy một bầu khí vui tươi ấm cúng và thánh thiện. Trước hết, sự sạch sẽ ngăn nắp chứng tỏ một gia đình sống có tổ chức, và cũng chứng tỏ tâm hồn mỗi người là trong sáng. Chính bầu khí này giúp mọi thành viên trong gia đình được triển nở tốt đẹp. Ở đó, mọi người sẽ cảm thấy mình được sống trong yêu thương và lớn lên trong tình yêu Chúa. Tiện nghi đầy đủ là tốt, nhưng không phải là điều cần cho gia đình được ấm cúng và hạnh phúc. Điều cần là mọi người phải cảm thấy có Chúa ngự giữa gia đình mình. Điều làm cho người kitô hữu sống khác với kẻ khác là trong bất cứ hoàn cảnh nào dầu là đen tối nhất, họ vẫn cảm thấy mình hạnh phúc. Muốn thế, mọi người phải biết sống tâm tình tạ ơn. Tạ ơn Chúa khi vui cũng như khi buồn, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan để chứng tỏ lòng mến Chúa. Đời sống gia đình có tổ chức, việc đạo đức được thực hiện đầy đủ giúp vợ chồng ngày càng thăng tiến về mọi nhân đức và cũng là làm gương sáng cho con cái. Vợ chồng đừng bao giờ có sự bất hòa trước mặt con cái. Điều này rất tai hại, vì làm cho con cái dễ mặc cảm xấu về cha mẹ mình. Đặc biệt cần tránh gương xấu trong lời nói việc làm, nhất là đối với những con cái còn nhỏ dại. Gương xấu sẽ để lại trong tâm hồn trẻ thơ một vết sẹo dễ làm cho con cái nhiễm phải nhiều nết xấu sau này. 3. Sinh đẻ có trách nhiệm. “Trọng trách lưu truyền sự sống con người, làm cho đôi bạn trở thành những cộng tác viên tự do và hữu trách của Tạo hóa, vốn gây cho chính họ những khoái lạc bao la, và nhiều khi cũng đem theo không ít khó khăn và vất vả. Chu toàn trọng trách đó, tuy bao giờ cũng đặt ra những vấn nạn khó khăn cho lương tâm đôi bạn, nhưng sự biến hóa mới mẻ của loài người đã gây nhiều thay đổi và nêu ra những vấn đề mới, mà Giáo Hội không thể làm ngơ, vì chúng liên quan mạt thiết đến sự sống và hạnh phúc con người” (SSCN, số 1). Con cái là một hồng ân Chúa ban. Tình yêu vợ chồng vốn hướng đến việc sinh sản. Đứa con là kết quả của hai người hiến thân cho nhau, là hoa trái và là sự hoàn tất của tình yêu vợ chồng. Tuy nhiên, có con là một trách nhiệm, một gánh nặng cho cha mẹ. Đây là một vấn đề thời sự mà nhiều người quan tâm. Đặc biệt Giáo Hội phải lên tiếng nói rõ đường lối của mình. 1o Tiết dục trong đời sống hôn nhân. Có con là một đòi hỏi của đời sống hôn nhân. Nhưng từ đầu, hai vợ chồng phải thấy trước khả năng nuôi dạy của mình để quyết định số con cái muốn có. Vì thế tiết dục là cần thiết trong đời sống hôn nhân. Tiết dục không phải là cấm đoán mà là vợ chồng phải biết hy sinh kiềm chế dục tính một cách chính đáng và khoa học. Trong Hiến Chế mục vụ gia đình số 51, Công Đồng Vatican II nói : “Muốn tổ chức đời sống vợ chồng cho thuận hòa, đôi bạn thường vấp phải một số tình trạng sinh sống khó khăn hiện đại và có thể lâm vào những hoàn cảnh khiến họ không thể gia tăng số con cái, ít là trong một thời gian ; đó là lúc phải khó khăn lắm mới duy trì được tình yêu trung thành và sự chung sống trọn vẹn. Một khi đời sống thân mật vợ chồng bị gián đoạn, sự chung thủy thường bị đe dọa và lợi ích con cái có thể bị giảm sút ; vì trong trường hợp này, việc giáo dục cũng như lòng can đảm sinh thêm con cái đều bị tổn thương”. Phải chăng sự tiết dục trường kỳ hay định kỳ như thế trong hôn nhân là một điều nghịch thường, vượt qúa sức tự nhiên của con người ? Không thiếu những gia đình đã làm chứng về đời sống tiết dục khá thành công. Cụ thể ở Ấn độ, nhiều người đã hoãn lập gia đình tới sau năm 36 tuổi, để luyện Yoga, hoặc nếu lập gia đình sớm thì từ 40 tuổi trở lên sẽ tránh hẳn việc vợ chồng để có thể luyện Yoga. Chính Hội Thánh, trong những thế kỷ đầu cũng đã đề cao vấn đề này : “Hỡi anh em, tôi xin nói với anh em điều này : thời gian chẳng còn bao lâu. Vậy từ nay những người có vợ hãy sống như không có ; ai khóc lóc hãy làm như không khóc ; ai mừng vui, như chẳng vui mừng ; ai mua sắm, hãy làm như không có gì cả ; kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng dùng. Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi” (1Cr 7, 29-31). 2o Sinh đẻ có trách nhiệm. Tùy khả năng nuôi dạy của mình theo một chương trình đã ấn định : đó là trách nhiệm. Lập luận rằng “trời sinh voi trời sinh cỏ” là một lối lập luận vô trách nhiệm. Con cái sinh ra không được giáo dục đầy đủ, đời sống thiếu thốn không xứng với phẩm giá con người là cha mẹ lỗi bổn phận và vô trách nhiệm. Tuy nhiên, cần nhớ rằng sinh con phải theo định luật tự nhiên của đời sống hôn nhân. Con cái được cưu mang bằng một tình yêu ý thức của cha mẹ. Sức khỏe, nhà cửa, nhân cách và những yếu tố khác sẽ giúp cha mẹ ấn định số con cái nên có. Không ai ngoài họ có thể giải quyết thay họ. Những điều nói trên không phải là một giải pháp tiêu cực : từ chối con cái vì hạnh phúc ích kỷ của hai người, nhưng là một đòi hỏi tích cực. Nếu chỉ vì tội ích kỷ, thì không thể chấp nhận điều hòa sinh sản. Vậy trách nhiệm đặt ra là đòi hỏi cả hai người phải vì lợi ích chung và vì lợi ích phần rỗi. 3o Phương pháp giúp giải quyết vấn đề trách nhiệm. Công Đồng Vatican II đề ra nguyên tắc chung : – Tôn trọng sứ mệnh lưu truyền sự sống và phẩm giá con người ; – Không được trái nghịch với lề luật của Chúa về việc lưu truyền sự sống ; – Xứng hợp với những quy tắc khách quan về luân lý ; – Không được xâm phạm ý nghĩa tình yêu hôn nhân là tự hiến cho nhau, cũng như không được xâm phạm tính cách nhân bản của việc sinh con cái. Tóm lại, theo Công Đồng, chỉ được sử dụng những phương pháp nào thuận với tự nhiên, không đi ngoài sự quan phòng của Thiên Chúa. Cụ thể là chỉ giao hợp trong thời gian không kết đậu, như vậy điều chỉnh việc sinh sản mà không xúc phạm đến luân lý. Hiện nay có những phương pháp sau :
Mục đích của Hôn nhân Công giáo là gì?Hôn nhân Công giáo là bí tích Chúa Giêsu đã lập để kết hợp hai người tín hữu, một nam một nữ thành vợ chồng trước mặt Thiên Chúa và Hội thánh, cùng ban ơn giúp họ sống xứng đáng ơn gọi của mình. Khi một người nam và một người nữ kết hôn, họ trở thành vợ chồng theo luật tự nhiên. Mục đích của hôn nhân là gì?Mục đích cơ bản nhất và quan trọng nhất của đời sống hôn nhân là việc sinh sản, nuôi dưỡng và giáo dục con cái, qua đó góp phần duy trì nòi giống, đảm bảo tương lai tồn tại của cả một dân tộc. Chỉ có hôn nhân 1 vợ - 1 chồng là đáp ứng được các mục đích này và tạo ra các "tế bào khỏe mạnh" cho xã hội. Bạn học giáo lý hôn nhân với mục đích gì?Vậy Hôn Nhân có những mục đích nào? Có hai mục đích cơ bản. Thứ nhất: yêu thương và giúp đỡ nhau. Thứ hai: là cộng tác với Thiên Chúa trong việc sinh sản và giáo dục con cái. Giáo lý Dự Tòng và hôn nhân học bao lâu?Nếu hai bạn đều là người công giáo thì phải học giáo lý hôn nhân trong vòng tối thiểu là 3 tháng. Còn một người khác đạo muốn theo công giáo thì phải học giáo lý tân tòng tối thiểu là 6 tháng. |