Nhà Nguyễn có chính sách như thế nào đối với thủ công nghiệp

Chi tiết Chuyên mục: Bài 27 phần 1: Chế độ phong kiến nhà Nguyễn

    - Tình hình thủ công nghiệp nước ta thời Nguyễn ở nông thôn và thành thị vẫn không ngừng phát triển. Nhiều làng nghề thủ công nổi tiếng khắp nước như: Bát Tràng (Hà Nội), dệt lụa Vạn Phúc (Hà Nội)…

Show

    - Những hoạt động thủ công nghiệp trong dân gian còn rất phân tán. Thợ thủ công phải nộp thuế sản phẩm nặng nề.

(Nguồn: Bài 2 trang 139 sgk Lịch sử 7:)

Đề bài

Hãy đánh giá chính sách ngoại giao của nhà Nguyễn

Phương pháp giải - Xem chi tiết

dựa vào sgk Lịch sử 10 trang 127 để đưa ra đánh giá, nhận xét.

Lời giải chi tiết

- Tích cực:Duy trì quan hệ thân thiện với các nước láng giềng, nhất là Trung Quốc.

- Hạn chế: Thực hiện chính sách ngoại giao "đóng cửa", khước từ mọi quan hệ với các nước phương Tây. => Thể hiện sự bảo thủ, lạc hậu, không tạo điều kiện cho đất nước giao lưu với các nước và các nền văn hóa tiên tiến trên thế giới,dẫn đến đất nước trì trệ.

Loigiaihay.com

  • Cuộc cải cách hành chính của Minh Mạng có ý nghĩa gì?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 2 trang 127 SGK Lịch sử 10

  • Em hãy nhận xét về thủ công nghiệp nước ta ở nửa đầu thế kỉ XIX

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 1 trang 128 SGK Lịch sử 10. Em hãy nhận xét về thủ công nghiệp nước ta ở nửa đầu thế kỉ XIX

  • Em có nhận xét gì về người thợ thủ công Việt Nam?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 2 trang 128 SGK Lịch sử 10. Em có nhận xét gì về người thợ thủ công Việt Nam?

  • Đánh giá chính sách hạn chế ngoại thương của nhà Nguyễn

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 3 trang 128 SGK Lịch sử 10

  • Trình bày khái quát và nhận xét quá trình hoàn chỉnh bộ máy thống trị của nhà Nguyễn.

    Giải bài tập 1 trang 129 SGK Lịch sử 10

  • Lập bảng thống kê các cuộc kháng chiến và khởi nghĩa chống ngoại xâm từ thế kỉ X đến thế kỉ XV.

    Giải bài tập 1 trang 100 SGK Lịch sử 10. Lập bảng thống kê các cuộc kháng chiến và khởi nghĩa chống ngoại xâm

  • Trình bày nguyên nhân thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

    Giải bài tập 3 trang 100 SGK Lịch sử 10

  • Nêu nguyên nhân của các cuộc chiến tranh phong kiến: Nam - Bắc triều, Trịnh - Nguyễn.

    Giải bài tập 3 trang 110 SGK Lịch sử 10. Nêu nguyên nhân của các cuộc chiến tranh phong kiến: Nam - Bắc triều,

  • Giáo dục, văn học, nghệ thuật, khoa học - kĩ thuật

    Tóm tắt mục II. Giáo dục, văn học, nghệ thuật, khoa học - kĩ thuật

  • Đề bài

    Chính sách ngoại thương của nhà Nguyễn với những nước phương Tây được thể hiện như thế nào?

    Video hướng dẫn giải

    Phương pháp giải - Xem chi tiết

    dựa vào sgk trang 139 để trả lời.

    Lời giải chi tiết

    Chính sách ngoại thương của nhà Nguyễn với các nước phương Tây:

    - Nhà Nguyễn dần thu hẹp các hoạt động của thương nhân phương Tây mặc dù họ vẫn đến buôn bán ở các hải cảng, nhưng nhà Nguyễn không cho người phương Tây mở cửa hàng. Họ chỉ được ra vào một số cảng quy định.

    - Về sau, Nhà Nguyễn đã thực hiện chính sách “ bế quan tỏa cảng”,khước từ mọi tiếp xúc với các nước phương Tây.

    Loigiaihay.com

    • Tại sao việc đắp đê ở thời Nguyễn gặp khó khăn?

      vua quan thời Nguyễn phần lớn không am hiểu tình hình khí hậu, điều kiện tự nhiên ở Đàng Ngoài, không nhận thức được tầm quan trọng của vấn để đê điều

  • Công cuộc khai hoang ở thời Nguyễn có tác dụng như thế nào ?

    Công cuộc khai hoang ờ thời Nguyễn có tác dụng như thế nào.

  • Nhà Nguyễn đã làm gì để lập lại chế độ phong kiến tập quyền?

    Nhà Nguyễn đã làm gì để lập lại chế độ phong kiến tập quyền

  • Tại sao diện tích canh tác được tăng thêm mà vẫn còn tình trạng nông dân lưu vong

    Tại sao diện tích canh tác được tăng thêm mà vẫn còn tình trạng nông dân lưu vong?

  • Những nguyên nhân dẫn đến cuộc sống cực khổ của nhân dân ta ở nửa đầu thế kỉ XIX

    Những nguyên nhân dẫn đến cuộc sống cực khổ của nhân dân ta ở nửa đầu thế kỉ XIX

  • Em hãy trình bày và vẽ sơ đồ tổ chức bộ máy chính quyền thời Lê sơ.

    ◦ Tổ chức bộ máy nhà nước thời Lê Thánh Tôg hoàn chỉnh và chặt chẽ nhất so với trước .Triều đình có đầy đủ các bộ ,tự ,các khoa và các cơ quan chuyên môn.

  • Luật pháp thời Lê sơ có điểm gì giống và khác thời Lý - Trần?

    - Giống nhau là về bản chất mang tính giai cấp và đẳng cấp. Mục đích chủ yếu để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị,

  • Nhà nước thời Lê sơ và nhà nước thời Lý - Trần có điểm gì khác nhau?

    - Thành phần quan lại cao cấp của nhà nước thời Lý - Trần là quý tộc, vương hầu. Còn ở nhà nước thời Lê sơ là các nho sĩ trí thức đỗ đạt

  • Chiến tranh Nam - Bắc triều

    Tóm tắt mục 1. Chiến tranh Nam - Bắc triều. Triều đình nhà Lê càng suy yếu thì sự tranh chấp giữa các phe phái phong kiến

  • A.Siết chặt cách thống trị đối với nhân dân. Đóng kín, bảo thủ, mù quáng

    B.Đàn áp nhân dân, thuần phục nhà Thanh

    C.Đàn áp nhân dân, khước từ mọi tiếp xúc với các nước phương Tây

    D.Áp dụng chặt chẽ bộ luật Gia Long, xem nhà Thanh là "Thiên triều"

    Đáp án và lời giải

    Đáp án:A

    Lời giải:Đáp án: A

    Vậy đáp án đúng là A.

    Câu hỏi thuộc đề thi sau. Bạn có muốn thi thử?

    Bài tập trắc nghiệm 15 phút Bài 25: Tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa dưới triều Nguyễn [nửa đầu thế kỉ XIX] - Lịch sử 10 - Đề số 10

    Làm bài

    • Dưới thời Nguyễn, khoa thi hội đầu tiên được tổ chức vào năm nào?

    • Khi Nguyễn Ánh đánh chiếm Thăng Long, Quang Toàn chạy đến đâu thì bị bắt?

    • Tác gia nào dưới thời Nguyễn được vinh danh là danh nhân văn hóa của thế giới?

    • Nhà Nguyễn thực hiện chính sách đối với tôn giáo là

    • Nhà Nguyễn thực hiện chính sách “cấm đạo” đối với

    • Điểm cơ bản nhất trong chính sách đối nội, đối ngoại của nhà Nguyễn là gì?

    • Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng đế đặt niên hiệu là

    • Về thương nghiệp nhà Nguyễn thực hiện chủ trương

    • Vị vua nào dưới triều Nguyễn đã quyết định chia đất nước thành các đơn vị hành chính tỉnh?

    • Hệ tư tưởng độc tôn dưới triều Nguyễn là

    • Điền số thích hợp vào chỗ chấm:

    • Trong các khẳng định sau, khẳng định nào đúng?

    • Viết số đo $\frac{1}{5}d{m^3}$ dưới dạng số đo có đơn vị là xăng-ti-mét khối.

    • Điền số thích hợp vào chỗ chấm:

    • Nếu tăng độ dài mỗi cạnh của một hình lập phương lên 8 lần thì diện tích toàn phần của hình lập phương đó thay đổi như thế nào?

    • Nếu tăng độ dài mỗi cạnh của một hình lập phương lên 8 lần thì diện tích xung quanh của hình lập phương đó thay đổi như thế nào?

    • Nếu diện tích toàn phần của một hình lập phương tăng lên 12 lần thì diện tích xung quanh của hình lập phương đó tăng lên mấy lần?

    • Nếu diện tích xung quanh của một hình lập phương tăng lên 8 lần thì diện tích toàn phần của hình lập phương đó tăng lên mấy lần?

    • Anh Nam dùng $2,4{m^2}$ tôn cắt thành một cái thùng hình lập phương có chu vi đáy 24dm. Tính diện tích phần còn lại của miếng tôn.

    • Nếu tăng độ dài mỗi cạnh của một hình lập phương lên 2 lần thì diện tích toàn phần của hình lập phương đó thay đổi như thế nào?

    • 1 Với Trung Quốc
    • 2 Với Xiêm La
    • 3 Với Ai Lao
    • 4 Với Chân Lạp
    • 5 Với phương Tây
    • 6 Xem thêm
    • 7 Chú thích
    • 8 Tham khảo

    Video liên quan

    Kinh tế Việt Nam thời nhà Nguyễn phản ánh kết quả hoạt động của các ngành nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương mại Việt Nam dưới sự cai trị của nhà Nguyễn thời kỳ còn độc lập (1802-1884) (giai đoạn kinh tế tiếp theo được phản ánh trong bài Kinh tế Việt Nam thời Pháp thuộc).

    Nền kinh tế Việt Nam thời nhà Nguyễn là nền kinh tế chủ yếu dựa trên nông nghiệp. Bên cạnh đó là sự tái phục hồi hoạt động nội thương sau thời gian dài đất nước bị chia cắt. Dưới thời Thiệu Trị, chính sách ngoại thương với các nước phương Tây có một số ưu đãi, trong khi với các nước láng giềng thì còn nhiều hạn chế và thủ tục phiền phức.

    Mục lục

    • 1 Nông nghiệp
      • 1.1 Vấn đề ruộng đất
      • 1.2 Việc khai hoang và phục hóa
      • 1.3 Việc trị thủy
      • 1.4 Việc cứu đói
    • 2 Thủ công nghiệp
    • 3 Thương mại
      • 3.1 Nội thương
      • 3.2 Ngoại thương
    • 4 Tiền tệ
    • 5 Chú thích
    • 6 Tham khảo

    Nông nghiệpSửa đổi

    Triều Nguyễn có những chính sách ưu đãi để phát triển nông nghiệp, như là cấm mua bán ruộng đất công, lập kho Thường bình, Sở Tịch điền, Sở Diễn canh, kho Bình thiếu, Sở Đồn điền, Đàn Xã Tắc, Đàn Tiên nông

    Cũng nhằm khuyến khích người dân cày ruộng, vua Minh Mạng khôi phục lại Lễ tịch điền (nhà vua đích thân xuống ruộng cày) và vào năm 1828, nhà vua giao cho bộ Lễ soạn thảo chu đáo các điển lễ làm thành luật lệ lâu dài.

    Vấn đề ruộng đấtSửa đổi

    Trong đình thần có ý kiến tịch thu ruộng đất bị chiếm trong thời loạn để phân cấp cho dân nghèo nhưng vua Gia Long cho rằng phép này khó thực hiện nên ông chỉ tịch thu những ruộng đất của quan lại triều Tây Sơn và ruộng trang trại riêng của Tây Sơn làm quan điền. Thời Minh Mạng định lại phép quân cấp ruộng khẩu phần, quan lại, binh lính, công tượng (thợ làm quan xưởng) cùng các hạng dân đinh, không kể phẩm trật cao thấp đều được hưởng một phần khẩu phân nhưng quan lại, cường hào cũng giành được những phần tốt hơn. Người già, người tàn tật thì được nửa phần. Cô nhi, quả phụ được 1/5.[1]

    Việc khai hoang và phục hóaSửa đổi

    Nhà Nguyễn tiếp tục một số công việc từ thời các chúa Nguyễn để lại như việc khẩn hoang, mở rộng, phát triển nông nghiệp. Ở Nam Kỳ, người dân đã tự do đến khẩn hoang với tư cách cá nhân hoặc tập thể dưới sự giúp đỡ của triều đình.[2] Sử sách cũng ghi lại tên tuổi nhiều người đã có công trong việc đào kênh, vỡ đất như Thoại Ngọc Hầu.

    Triều đình nhà Nguyễn dành cho việc khai hoang, phục hóa rất nhiều sự quan tâm, họ đã cho tiến hành nhiều chính sách khai khẩn hoang khác nhau và đã đem lại nhiều kết quả tốt đẹp. Diện tích ruộng đất thực trưng tăng lên nhiều: năm 1847 đã là 4.273.013 mẫu[3]

    Hai vị quan tổ chức khẩn hoang nổi tiếng nhất là Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Tri Phương;

    Đồn điền

    Chính sách này chủ yếu dựa vào việc mộ dân nghèo, đi cùng với tội phạm để thực hiện việc khai khẩn đất hoang. Trong thời gian khẩn hoang số dân này sẽ được quản lý theo cung cách đồn điền không giống như thôn ấp bình thường; sau một khoảng thời gian từ sáu đến mười năm để cuộc sống ổn định thì sẽ chuyển sang hình thức bình thường. Đồn điền xuất hiện nhiều nhất ở vùng Gia Định[4]. Đợt lập đồn điền lớn nhất do Kinh lược sứ Nam Kì là Nguyễn Tri Phương tổ chức vào năm 1853-1854, lập được 21 cơ, 124 ấp phân phối ở cả sáu tỉnh[5].

    Doanh điền

    Đây là hình thức triều đình và nhân dân cùng kết hợp khai hoang, mới ra đời từ thời Nguyễn theo đề xuất của Tham tán quân vụ Bắc thành Nguyễn Công Trứ

    Chính sách này nhằm di dân để lập ấp mới, bắt đầu thực hiện từ năm 1828 dưới thời vua Minh Mạng. Cách thức được quy định cụ thể như sau: nhà nước sẽ bỏ vốn ban đầu và cử ra một quan chức sẽ dứng ra chiêu mộ và chỉ đạo dân chúng đưa đi khai hoang theo hai trường hợp

    Ngoài ra, triều đình Nguyễn còn khuyến khích nhân dân tự do khai hoang kết hợp phục hóa. Việc đinh điền cũng có chỉnh đốn và kiểm soát chặt chẽ hơn. Ruộng đất ở Nam Việt thời Minh Mạng được đo đạc lại, tính ra được 630.075 mẫu. Tổng số đinh toàn quốc là 970.516 xuất và 4.063.892 mẫu ruộng đất.

    Tuy nói trên toàn diện, đất công điền không quá 1/5 diện tích canh tác, nhưng phần đất còn lại được phân phối giữa nông dân mà đa số chỉ làm chủ tới 5 mẫu là nhiều. Hạng người có 100 mẫu trở lên thì rất ít, mỗi tỉnh được nhiều nhất là dăm ba người.

    Việc trị thủySửa đổi

    Vua Gia Long vừa lên ngôi đã quan tâm đến vấn đề đê điều và cho người tu bổ đê cũ, đắp thêm đê mới. Năm 1809, ông lại cho đặt nha Bắc Thành đê chánh và các chức Tổng lý và Tham lý đê chánh để lo vấn đề đê điều ở các trấn xứ Bắc Kỳ. Tới năm 1828, theo đề nghị của các quan, vua Minh Mạng cho cho tăng cường thêm nhân sự cho nha môn đê chánh nhưng tới 1833 thì bỏ nha này đi để chuyên ủy việc đê điều cho các Đốc biện tại các tỉnh.

    Việc đắp đê, sửa chữa và khám xét được quy định tỉ mỉ. Thời Tự Đức nhiều lần đã xác định lại cách thưởng phạt về sự phòng hộ đê và phân định trách nhiệm của các phủ, huyện, tổng, lý sở tại các nơi đê vỡ.[6]

    Năm 1809, hệ thống đê điều ở Bắc Thành tổng cộng là 239.933 trượng tương đương 960 km[6]. Sau 21 năm dưới thời nhà Nguyễn, chiều dài các con đê ở Bắc Kỳ đã tăng lên 303.616 trượng tương đương 1.215km. Tới cuối thế kỷ XIX, hệ thống đê này đã dài tới 2.400km[6]

    Vua Minh Mạng, vị vua thứ hai của triều Nguyễn

    Mặc dù triều đình dành rất nhiều quan tâm nhiều tới việc trị thủy như vậy nhưng vấn đề này vẫn không được giải quyết như mong đợi, vì thiếu sự phối hợp đồng bộ và quy hoạch chung giữa các địa phương, do tác động của môi trường, sinh thái,... các đê đắp lên cứ vỡ liên miên. Đặc biệt là ở sông Hồng, vì đất bồi nên lòng sông giữa hai con đê cao hơn mặt đất, mỗi khi nước lớn thì đê không tài nào cản nổi. Triều đình phân vân trong 3 cách: giữ đê, phá đê và đào thêm sông. Ngay từ thời Minh Mạng, nhà vua đã nhiều lần hội nghị về việc này, ý kiến bất đồng quá nhiều tới nỗi thời 2 vua Thiệu Trị và Tự Đức phải treo bảng khắp nơi để trưng cầu dân ý.

    Năm 1833, theo lệnh nhà vua, vị Tổng đốc Nam Định là Đặng Văn Thiêm đi khám xét đê điều đã tâu lên Minh Mạng chủ trương "...Sửa đắp đê mới hay đê cũ, công trình nặng nhọc, phí tổn công khố cũng nhiều, thế mà khó nói trước có giữ được chắc chắn hay không. Nếu đổi ra làm việc khai sông... như vậy không những bớt được chút phí tổn mà lại có thể phân được thế nước và bớt được sự xô mạnh dồn xuống." Vua Minh Mạng ra lệnh đình chỉ việc đắp đê để chờ xem tình hình ra sao rồi mới bàn định lại. Nhưng năm 1834, Minh Mạng sai Giám thành Phó sứ là Trương Viết Sùy kiểm tra lại thì ông cho rằng "không thể bỏ đê được".

    Năm 1852, vua Tự Đức lại tiếp tục mở cuộc trưng cầu ý kiến về việc phòng đê ở Bắc Kỳ,

    Việc cứu đóiSửa đổi

    Trải qua nội chiến, nhân dân lại gặp mất mùa liên tiếp. Triều đình thường phải giảm thuế, miễn thuế và chẩn cấp. Người dân bị đói tràn khắp vùng thôn quê, tụ họp nhau đi cướp và những người chống triều đình lợi dụng sự bất mãn của những đoàn dân đói này để xách động nổi loạn như ở Thanh Hóa và Nghệ An năm 1819.

    Mỗi khi mất mùa, triều đình phải áp dụng những biện pháp khẩn cấp để cứu đói. Để có phương tiện thực hiện cứu trợ khẩn cấp, triều đình thiết lập các kho lương trữ lúa cho việc cứu tế được gọi là Bình Chuẩn Thương, người nghèo túng có thể mua gạo giá rẻ hơn bình thường và không giới hạn, từ 1, 2 phương tới cả thưng, đấu, bát.

    Ngoài ra triều Nguyễn còn lập ra Nghĩa Thương là những kho trữ lúa ở các tỉnh và phủ huyện. Những khi đói kém thì các kho này được mở ra để phát chẩn cho dân nghèo. Triều Nguyễn cũng cho tổ chức Xã Thương rất nhiều dưới thời vua Tự Đức, khi gạo đắt thì bán ra, khi gạo rẻ thì đong lại để lưu trữ, có thể cho vay, thu lợi bao nhiêu dùng để cấp dưỡng binh đinh và giúp kẻ nghèo khó.

    Thời Minh Mạng triều đình cũng bắt quan lại các tỉnh phải xuất lúa giống ở kho cho dân nghèo vay để làm mùa sau, nhằm làm cho nông nghiệp không bị đình trệ và việc mất mùa không ảnh hưởng nhiều sang các năm sau.[7]

    Để làm nhẹ bớt sự khổ cực của người nông dân, triều Nguyễn cho áp dụng chính sách giảm hay miễn thuế cho những tỉnh bị nạn. Riêng với các tỉnh bị thiệt hại nặng, nhà vua cho miễn luôn tất cả các khoản thuế còn thiếu ở những năm trước. Năm 1841, vua Thiệu Trị cho dân Hưng Yên được miễn số thuế là 23.385 quan và 83.162 hộc lúa.[8]

    Thủ công nghiệpSửa đổi

    Thủ công nghiệp Nhà nước thời Nguyễn chế tạo tất cả những đồ dùng cho hoàng gia, tham gia đóng thuyền cho quân đội, đúc vũ khí, đúc tiền,...[9] Chính vì vậy, nhà Nguyễn cũng tập trung xây dựng hệ thống các xưởng thủ công Nhà nước, nhất là ở kinh đô và các vùng phụ cận. Năm 1803, Gia Long thành lập xưởng đúc tiền Bắc Thành tiền cục ở Thăng Long.[9] Nhà Nguyễn cũng lập các Ti trông coi các ngành thủ công. Ví dụ như ti Vũ khố chế tạo quản lý nhiều ngành thủ công khác nhau, gồm 57 cục: làm đất, đúc, làm đồ vàng bạc, vẽ tranh, làm ngói, làm đồ pha lê, khắc chữ, đúc súng, làm trục xe, luyện đồng,... Ti Thuyền chịu trách nhiệm về các loài thuyền công và thuyền chiến, gồm 235 sở trên toàn quốc[9]. Ngoài ra còn có các ti Doanh kiến, ti Tu tạo, ti Thương bác hoả dược.[10]

    Phần lớn nhân lực trong các xưởng thủ công Nhà nước là do triều đình trưng dụng thợ khéo trong các ngành như khảm xà cừ, kim hoàn, thêu thùa... tới làm việc để cung cấp đồ dùng cho triều đình. Vì vậy người thợ luôn tìm cách trốn tránh dù chính phủ áp dụng những biện pháp trừng phạt nặng nề để ngăn chặn.

    Trong nghề đóng tàu, năm 1820 sĩ quan người Mỹ John White đã nhận xét:" Người Việt Nam quả là những người đóng tàu thành thạo. Họ hoàn thành công trình của họ với một kỹ thuật hết sức chính xác." Ngoài các thuyền gỗ, người thợ thủ công Việt Nam còn đóng cả các loại tàu lớn bọc đồng[11]. Ngoài ra họ đã sáng chế được nhiều máy móc tiên tiến và có chất lượng vào thời đó, ví dụ các máy cưa xẻ gỗ, máy tưới ruộng,... và cả máy hơi nước.[11].

    Nhà Nguyễn cũng tập trung tham gia quản lý khai mỏ. Đến nửa đầu thế kỷ 19, triều đình đã quản lý 139 mỏ, và năm 1833 có 3.122 nhân công trong các mỏ Nhà nước[11][12]. Tuy nhiên, phương thức khai mỏ thời bấy giờ vẫn kém phát triển so với thế giới.

    Thương mạiSửa đổi

    Nội thươngSửa đổi

    Việc thống nhất đất nước vào đầu thế kỷ XIX là một điều kiện thuận lợi cho thương nghiệp phục hồi và tái phát triển sau một thời gian dài suy thoái. Ngoài ra, Gia Long và các vua nhà Nguyễn cũng cho sửa sang đường sá, xoi đào các sông ngòi, đắp các đê điều, để cho việc làm ăn của người dân được tiện lợi, cụ thể là: đường sá trong nước là sự khẩn yếu cho việc chính trị, vậy nên Gia Long mới định lệ sai quan ở các doanh, các trấn phải sửa sang đường quan lộ, bắt dân sở tại phải đắp đường làm cầu, lệ cứ 15.000 trượng đường thì phát cho dân 10.000 phương gạo. Từ ải Nam Quan (thuộc Lạng Sơn) vào tận Bình Thuận, cứ 4.000 trượng phải làm một nhà trạm ở cạnh đường quan lộ, để cho quan khách đi lại nghỉ ngơi. Cả thảy 98 trạm. Còn từ Bình Thuận trở vào phía nam đến Hà Tiên thì phải đi đường thủy.[13]

    Tuy nhiên, thương mại của Việt Nam rất kém cỏi, họ buôn lẻ hàng hóa của người Hoa để bán lại kiếm lời. Sự tổ chức thương mại của người Việt sơ sài, trong phạm vi gia đình. Nếu có những hội buôn lớn thì cũng chỉ là những phường họp vài thương gia hùn vốn với nhau để kinh doanh rồi chia tiền ngay. Họ không liên kết lại thành những hội buôn làm ăn lâu dài. Nhiều người Việt Nam cho vay lãi trở nên phát tài nhưng họ dùng tiền của để mua ruộng đất chứ không đầu tư kinh doanh, khuếch trương thương mại hay công nghệ. Do đó mà thương nghiệp không mạnh được, một phần lớn cũng bởi tâm lý của người dân.[14]

    Trong vùng quê, hoạt động thương mại cũng chỉ nhằm trao đổi nông sản và hàng tiểu thủ công ở các chợ. Ở đó, ngoài những cửa hàng tạp hóa quy mô nhỏ hay các cửa tiệm bán thuốc Bắc, còn có những nông dân bán thổ sản và nông sản của minh và một số thương nhân nhỏ bán vải vóc, hàng xén, cau thuốc, đi rong từ chợ này sang chợ khác.

    Ngoài các tổ chức buôn bán đại quy mô ra, Hoa kiều trong các đô thị lớn còn kinh doanh sòng bạc, đánh đề hay đút lót cho các quan để được đúc tiền, trưng thầu thuế đò, thuế chợ hay độc quyền rượu. Có những Hoa thương có thế lực còn chiếm độc quyền cung cấp hàng cho triều đình.[15] Dù vậy, guồng máy chính phủ cản trở nhiều sự trao đổi hàng hoá bởi sự nhiêu khê của các thủ tục hành chính ở các cửa ải và sở thuế.

    Những cải cách tiền tệ cho thấy là thương mại phát triển hơn so với thế kỷ trước. Cho tới hết thời Nam-Bắc triều thì chỉ tệ duy nhất được đúc là tiền đồng, cứ 500 đồng thành 1 quan. Giá trị thứ tiền này rất kém, sử dụng khó khăn chỉ hợp với 1 xã hội mà hoạt động kinh tế không quá thôn xã và sự mậu dịch không quan trọng. Vua Gia Long và Minh Mạng đã cho đúc những nén vàng, nén bạc cho thấy kinh tế thương mại đã có bước tiến lên trước. Tuy nhiên, chúng ít được đầu tư và được dân chúng đem cất trữ bởi tâm lý dân chúng còn mang nặng tính nông nghiệp.[16]

    Ngoại thươngSửa đổi

    Cho tới thời Thiệu Trị, chính sách ngoại giao của nhà Nguyễn với phương Tây khá cẩn trọng nhưng thương mại với họ vẫn được khuyến khích. Sau năm 1818, các thương gia phương Tây khỏi phải trả thuế nhập cảng quá cao, chỉ vài loại hàng mới phải chịu thuế xuất cảng còn phần lớn được miễn. Hoạt động thương mại của Việt Nam với các nước láng giềng không thể phát triển tự do khi các quan chức đánh thuế nặng lên thương mại, còn thủ tục thì rất phiền phức. Ngoài ra, triều đình còn cấm đoán một số mặt hàng, muốn bán phải có giấy phép riêng. Guồng máy hành chính của nhà Nguyễn cản trở rất nhiều các hoạt động của thương nhân trong thế kỷ XIX mà cũng không có một tầng lớp trung lưu làm giàu bằng thương mại để thúc đẩy triều đình mở rộng giao dịch quốc tế[17]. Về các thành thị công thương thì Hội An, Phố Hiến, Thanh Hà do nhiều nguyên nhân trở nên suy tàn và không thể phục hồi như xưa; còn Thăng Long, Bến Nghé, Đà Nẵng vẫn tiếp tục cuộc sống công thương như bình thường; Gia Định vẫn phát triển đều đặn. Xuất hiện thêm vài hiệu buôn người Hoa, một số phường thủ công cũng ổn định mặt hàng nhưng không thay đổi nhiều.[5]

    Tiền tệSửa đổi

    Bảo Đại thông bảo

    Tiền lưu hành vào thời kỳ này được làm từ vàng, bạc, kẽm, đồng và chì, được phát hành ở dạng tiền xu, nén (thỏi). Khi Nguyễn Vương lên ngôi vua, ông cho đúc các loại tiền "Gia-long Thông-bảo". Các vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức ngoài việc đúc tiền kim loại bằng đồng và kẽm có hình tròn lỗ vuông, còn đúc các loại tiền bằng bạc hay bằng vàng, mang hình ảnh Long Vân, Nhật Nguyệt, Ngũ Phúc, Phú Thọ Đa Nam; hoặc đúc các thoi bạc thoi vàng hình hộp chữ nhật. Giá-trị của thoi tiền tính theo quan, theo lạng và được in nổi trên thoi tiền.

    Từ giữa cuối thế kỷ 19, nhà Nguyễn bắt đầu cho phép tư nhân đúc tiền, do đồng kim loại trong tiền đồng giảm đi nên nhiều tiền đồng có chất lượng kém được đưa vào lưu thông. Do những điểm yếu đó, nên đến thời vua Tự Đức, phương tiện thanh toán chủ yếu trong các giao dịch là tiền đồng của nhà Nguyễn

    Chú thíchSửa đổi

    1. ^ Lịch sử Việt Nam từ nguồn-Thế kỷ XIX-Đào Duy Anh Nhà xuất bản VHTT tr 457
    2. ^ Nguyễn Thế Anh-Kinh tế & Xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn Nhà xuất bản Văn Học tr 92
    3. ^ Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn 2008, tr.445
    4. ^ Nguyễn Khắc Thuần 2005, tr.307
    5. ^ a b Trương Hữu Quýnh (chủ biên), Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh, Đại cương lịch sử Việt Nam - tập 1, Nhà xuất bản Giáo dục, Thành phố Hồ Chí Minh 2005
    6. ^ a b c Nguyễn Thế Anh-Kinh tế & Xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn Nhà xuất bản Văn Học tr 101
    7. ^ Nguyễn Thế Anh-Kinh tế & Xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn Nhà xuất bản Văn Học tr 118-121
    8. ^ Nguyễn Thế Anh-Kinh tế & Xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn Nhà xuất bản Văn Học tr 124-125
    9. ^ a b c Trương Hữu Quýnh (chủ biên), Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh, Đại cương lịch sử Việt Nam - tập 1, Nhà xuất bản Giáo dục, Thành phố Hồ Chí Minh 2005, trang 450
    10. ^ Trương Hữu Quýnh (chủ biên), Đào Tố Uyên, Phạm Văn Hùng, Lịch sử Việt Nam từ thế kỷ X đến 1858, Nhà xuất bản ĐH Sư phạm, Thành phố Hồ Chí Minh 2004, trang 263
    11. ^ a b c Trương Hữu Quýnh (chủ biên), Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh, Đại cương lịch sử Việt Nam - tập 1, Nhà xuất bản Giáo dục, Thành phố Hồ Chí Minh 2005, trang 451
    12. ^ Trương Hữu Quýnh (chủ biên), Đào Tố Uyên, Phạm Văn Hùng, Lịch sử Việt Nam từ thế kỷ X đến 1858, Nhà xuất bản ĐH Sư phạm, Thành phố Hồ Chí Minh 2004, trang 264
    13. ^ Việt Nam Sử lược-Trần Trọng Kim PHẦN V Cận Kim Thời-Đại Nhà Nguyễn (1802-1945) CHƯƠNG I Thế Tổ (1802-1819)
    14. ^ Nguyễn Thế Anh-Kinh tế & Xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn Nhà xuất bản Văn Học tr 214
    15. ^ Nguyễn Thế Anh-Kinh tế & Xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn Nhà xuất bản Văn Học tr 205-212
    16. ^ Nguyễn Thế Anh-Kinh tế & Xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn Nhà xuất bản Văn Học tr 214-215
    17. ^ Nguyễn Thế Anh-Kinh tế & Xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn Nhà xuất bản Văn Học tr 242-246

    Tham khảoSửa đổi