Từ năm 1900 đến năm 2000 có bao nhiêu năm nhuận vì sao

Việc tính năm nhuận Dương lịch (DL) và năm nhuận Âm lịch (AL) thì không có gì phức tạp lắm, nhưng tính tháng nhuận của năm AL thì rất phức tạp

Show

Từ năm 1900 đến năm 2000 có bao nhiêu năm nhuận vì sao


Việc tính năm nhuận Dương lịch (DL) và năm nhuận Âm lịch (AL) thì không có gì phức tạp lắm, nhưng tính tháng nhuận của năm AL thì rất phức tạp (nó không cố định tháng nhuận như năm DL là tháng 2 thêm 1 ngày = 29 ngày).

Tháng nhuận AL được tính theo phương thức kết hợp nhiều yếu tố liên quan đến các “tiết” và “khí” trong các tháng của năm. Trong bài này chỉ đề cập tới cách tính năm nhuận DL và AL như sau:

Năm nhuận dương lịch

Theo lịch đã in, năm 2014 là năm nhuận âm lịch hai tháng Chín. Việc tính năm nhuận trong dương lịch và âm lịch khác nhau. Dương lịch hiện tại mà chúng ta đang dùng là lịch của người La Mã cổ đại.Bạn đang xem: Các năm nhuận từ 2000 đến nay

Lúc đó, người La Mã không hề biết là Trái Đất quanh xung quanh Mặt trời và năm của họ chỉ có 304 ngày (được chia thành 10 tháng chứ không phải 12 tháng).

Khi nhận ra lịch của họ có thiếu sót (thiếu tận 60 ngày), hoàng đế Pompilius đã thêm hai tháng có tên là January và February.

Cho tới lúc này, lịch của Pompilius đã tương đối chính xác (có 365 ngày) và chỉ thiếu mất 1/4 ngày một năm. Cho tới khi Julius Caesar lên nắm quyền thì lịch đã bị lệch mất 80 ngày so với mặt trời (lệch mùa) và nếu không có sự sửa đổi ngay lập tức thì lịch sẽ còn lệch hơn nữa trong tương lai.

Do vậy, nhà bác học có tên là Sosigenes ở Ai Cập đã xác định lại chính xác phần thiếu của lịch hiện tại (1/4 ngày cho mỗi năm) và đồng thời xếp lại thứ tự tháng.

Nhà bác học này cũng là người đặt ra quy định tháng hai có 28 ngày và cứ 4 năm một lần thì tháng 2 sẽ lại có 29 ngày để bù cho 1/4 ngày bị dư ra của một năm.

Ngày nhuận này được đặt vào năm chia hết cho 4. Sau này, lịch này lại được sửa đổi thêm một lần nữa khi quy định rằng vào các năm chia hết cho 100 (đương nhiên chia hết cho 100 sẽ chia hết cho 4) nhưng không chia hết cho 400 thì không phải năm nhuận.

Muốn biết năm nào của Dương lịch là năm nhuận thì ta chỉ cần lấy số biểu của năm đó đem chia cho 4 mà vừa đủ thì năm đó là năm Dương lịch có nhuận tháng 2 thêm 1 ngày thành 29 ngày. Chẳng hạn: Năm 2012 là năm nhuận dương lịch vì 2012 chia vừa đủ cho 4.

Với những năm tròn Thế kỷ (tức số biểu của năm đó có 2 con số không ở cuối thì ta phải lấy 2 con số đầu của số biểu để chia cho 4. Nếu chia vừa đủ là năm đó có nhuận.

Năm nhuận âm lịch

Năm nhuận trong âm lịch quy tắc khác với dương lịch. Âm lịch tính thời gian theo mặt trăng. Một tháng mặt trăng trung bình có 29,5 ngày. Một năm âm lịch có 354 ngày, ngắn hơn năm dương lịch 11 ngày. Cứ 3 năm lại ngắn hơn 33 ngày (hơn 1 tháng).

Để âm lịch vừa chỉ được tuần trăng, vừa không sai lệch nhiều với thời tiết 4 mùa, cứ 3 năm âm lịch người ta phải cho thêm một tháng nhuận để năm âm lịch và dương lịch không sai nhau nhiều.

Tuy nhiên, năm âm lịch vẫn chậm hơn so với năm dương lịch. Người ta khắc phục tình trạng trên bằng cách cứ 19 năm lại có một lần cách 2 năm thêm một tháng nhuận.

Trong 19 năm dương lịch có 228 tháng dương lịch, tương ứng với 235 tháng âm lịch, thừa 7 tháng so với năm dương lịch, gọi là 7 tháng nhuận. Bảy tháng trước đó được quy ước vào các năm thứ 3, 6, 9 hoặc 8, 11, 14, 17, 19 của chu kỳ 19 năm.

Với năm âm lịch, muốn tính năm nhuận lấy năm dương lịch tương ứng chia cho 19, nếu số dư là một trong các số: 0, 3, 6, 9 hoặc 11, 14, 17 thì năm âm lịch đó có tháng nhuận.Xem thêm: Sự Khác Nhau Giữa Phong Hóa Lí Học Phong Hóa Hóa Học Và Phong Hóa Sinh Học

Còn năm đó nhuận vào tháng nào được các nhà lịch pháp phải công phu, kinh nghiệm tính mới chính xác và lập thành bảng để tuân theo dựa vào nhiều yếu tố khác. Một năm có thể nhuận cả dương lịch lẫn âm lịch.

Ví dụ: Năm 2014 chia cho 19 được chẵn 106 nên năm này là năm nhuận âm lịch vào tháng Chín, năm 2017 nhuận hai tháng 6, năm 2020 nhuận hai tháng Tư...

Năm nhuận chỉ là một thủ pháp của các nhà làm lịch nhằm làm cho năm âm lịch và dương lịch không sai lệch nhau nhiều, không có hàm ý gì về thời tiết, khí hậu.

Cần phân biệt năm nhuận dương lịch và năm nhuận âm lịch. 

Có năm nhuận dương lịch nhưng không nhuận âm lịch (vd năm 2008) Có năm nhuận âm lịch nhưng không nhuận dương lịch (vd năm 2014) Có năm nhuận cả dương lịch và âm lịch (vd năm 2012) Trong DƯƠNG LỊCH : Năm nhuận là năm chia hết cho 4, nhưng không chia hết cho 100 (trừ những năm chia hết cho 400 cũng là năm nhuận) 

Ví dụ các năm 1964; 1980; 1992; 1600; 2000 là các năm nhuận (dương lich) Các năm 1700; 1800; 1900; 2100 ko phải năm nhuận (dương lịch) Trong ÂM LỊCH : Năm nhuận là năm chia cho 19 có số dư là 0; 3; 6; 8; 11; 14; 17 

Nghĩa là trong 19 năm liên tiếp có 7 năm nhuận, là các năm thứ 3; 6; 8; 11; 14; 17 và 19.Quy tắc này cũng có khi sai nhưng không nhiều (có khi năm thứ 8 ko nhuận mà năm thứ 9 mới nhuận), nhưng nói chung trong 19 năm phải có 7 năm nhuận. Ví dụ các năm 1900; 1917; 1941; 1990; 2012 là các năm nhuận (âm lịch) Năm nhuận dương lịch có 366 ngày. 

Năm nhuận âm lịch có 13 tháng (383 hoặc 384 ngày)

Tính âm lịch TAM NGUYÊN CỬU VẬN

Người Trung Quốc cổ đại cách đây hơn mấy ngàn năm đã có kiến thức đáng kinh ngạc về lịch. Theo văn bản cổ nhất ở Viễn Đông bàn đến lịch pháp là chương Nghiêu điển mở đầu Kinh thư, lịch Trung Quốc hàm ẩn một triết lý nhân sinh vô cùng sâu sắc. Ta biết quỹ đạo vận chuyển của mặt trời trên thiên cầu gọi là “Hoàng đạo”. Quỹ đạo vận chuyển của mặt trăng xung quanh trái đất gọi là “Bạch đạo”

Dùng mặt trăng để tính tháng thì rất tiện, vì tháng biểu hiện theo tuần trăng rất rõ ràng, nhưng dùng để tính năm thì lại không chính xác, thời tiết bị sai lệch vì cứ 3 năm lại có một tháng nhuận, 5 năm có 2 tháng nhuận trong 19 năm có 7 tháng nhuận. Như vậy chu kì của năm nhuận nảy sinh ra nhiều điều rắc rối. Vậy tính sao đây?

Căn cứ theo “Lục Thập Giáp Tý can chi” để tính lịch. Một chu kỳ từ Giáp Tý trở lại Giáp Tý gọi là một hoa giáp, mỗi hoa giáp gồm 60 năm, cứ 60 năm gọi là một nguyên, cứ 3 nguyên gọi là chính nguyên có (0 năm x 3 = 180 năm.)

Trong mỗi chính nguyên (180 năm) có 3 đơn nguyên là: Thượng nguyên, Trung nguyên, và Hạ nguyên. Mỗi đơn nguyên có 3 vận, mỗi vận là 20 năm.

Cứ 3 chính nguyên (180 năm x 3 = 540 năm) là một đại nguyên. Có chính nguyên đầu, chính nguyên giữa và chính nguyên cuối. Hiện tại chúng ta đang ở trong chính nguyên cuối cùng (từ năm 1864 Giáp Tý đến năm 2043 Quý Hợi)

BẢNG TAM NGUYÊN CỬU VẬN

Từ năm 1900 đến năm 2000 có bao nhiêu năm nhuận vì sao

Căn cứ qua Tam nguyên cửu vận ta xác định được các năm nhuận của âm lịch như sau:

Xem bảng thống kê các năm nhuận sau:

Từ năm 1900 đến năm 2000 có bao nhiêu năm nhuận vì sao

Và tiếp đến là chính nguyên đầu của đại nguyên sau (kể từ năm 2044) đến năm 2224). Các năm nhuận được tính như trên.

Qua bảng thống kê: Trong chính nguyên (180 năm) có 67 năm nhuận ÂL, trong đó có 19 lần cách 2 năm có năm nhuận. Số còn lại cách 3 năm mới có năm nhuận.

Số năm nhuận ÂL được tính như sau:

Cứ 3 lần: cách 3 năm có năm nhuận.

Đến 1 lần: cách 2 năm có năm nhuận.

Rồi 2 lần: cách 3 năm có năm nhuận.

Đến 1 lần: cách 2 năm có năm nhuận.

Liên tục như vậy 6 lần: ( 3-2 ) Ở thượng nguyên và Trung nguyên.

Đến Hạ nguyên – nghịch đảo một lần: (2-3)

Rồi lại trở về 2 lần: ( 3-2 ) Cuối cùng cách 3 năm có năm nhuận 3 lần, rồi hết.

Qua chính nguyên kế tiếp được tính y như chính nguyên trên.

* Muốn tính năm nào là năm nhuận của ÂL, ta lấy biểu số của năm Dương lịch đem chia cho 19 nếu vừa hết không có số dư hoặc số dư là 3, 6, 9, 11, 14 và 17 thì năm đó là năm nhuận của âm lịch. Ví dụ: năm 1919: 19 vừa hết không có số dư

1993: 19 còn dư 17

2014: 19 còn dư 14

 2020: 19 còn dư 6 

Vậy các năm trên là năm nhuận của âm lịch

Tháng giêng (01) không bao giờ có là tháng nhuận. Riêng tháng 9, 10, 11 trong chính nguyên có duy nhất 1 tháng nhuận mà đều nằm ở Hạ nguyên. Điểm khác biệt cơ bản giữa dương lịch và âm lịch là: Trong âm lịch tháng đủ có 30 ngày, tháng thiếu chỉ có 29 ngày.

Năm nhuận là năm:

  • Theo dương lịch, chứa một ngày dư ra.
  • Theo âm-dương lịch, chứa tháng thứ 13.

Để đảm bảo đồng bộ việc lặp lại của năm trên lịch với năm thiên văn hoặc năm thời tiết.

Trong trường hợp dương lịch thì các mùa và các sự kiện thiên văn không lặp lại chính xác sau một số ngày, vì thế năm dương lịch cứ sau một khoảng thời gian nhất định phải thêm vào một ngày để đảm bảo việc chỉnh lại các sai số do làm tròn năm.

Trong trường hợp âm dương lịch như lịch Trung Quốc thì do một chu kỳ quay của Mặt Trăng quanh Trái Đất là khoảng 29,53 ngày nên một năm âm lịch chỉ có khoảng 354 ngày (làm tròn). Do vậy, cứ sau một vài năm âm lịch thì người ta phải bổ sung một tháng (tháng nhuận) để đảm bảo năm âm lịch tương đối phù hợp với chu kỳ của thời tiết, là yếu tố phụ thuộc vào chu kỳ quay của Trái Đất xung quanh Mặt Trời.

Khái niệm năm nhuận không nên nhầm lẫn với các giây nhuận (dùng để đảm bảo cho thời gian của đồng hồ đồng bộ với ngày).

Theo lịch Gregorius - loại lịch tiêu chuẩn hiện nay được dùng trên hầu khắp thế giới thì những năm nào chia hết cho 4 được và không chia hết cho 100 được coi là năm nhuận (ví dụ năm 2100 không phải là năm nhuận, 2104 là năm nhuận). Trong năm nhuận, tháng 2 có 29 ngày thay cho 28 ngày. Cứ 4 năm lại thêm 1 ngày vào lịch bởi vì một năm dương lịch (năm tính theo dương lịch) dài khoảng 365 ngày và 6 giờ.

Ngoài ra, vẫn có một số ngoại lệ đối với nguyên tắc này vì một năm dương lịch ngắn hơn 365,25 ngày một chút. Những năm chia hết cho 100 sẽ được coi là năm nhuận nếu chúng cũng chia hết cho 400. Ví dụ, 400, 800 và 1200 là các năm nhuận nhưng 100, 200, 300, 500,... 1500 không phải năm nhuận theo lịch Gregory đón trước; 1600 và 2000 là các năm nhuận nhưng 1700, 1800 và 1900 không phải năm nhuận. Tương tự như vậy, 2100, 2200, 2300, 2500, 2600, 2700, 2900 và 3000 không phải năm nhuận nhưng 2400 và 2800 là các năm nhuận. Theo nguyên tắc này thì trung bình một năm có 365 + 1/4 − 1/100 + 1/400 = 365,2425 ngày, tức là 365 ngày 5 giờ 49 phút và 12 giây.

Lý do nằm sau quy tắc này như sau:

  • Lịch Gregory được tạo ra để đảm bảo ngày xuân phân ở châu Âu rơi vào ngày 21 tháng 3, để đảm bảo ngày Lễ Phục Sinh có thể điều chỉnh theo ngày xuân phân một cách rõ ràng hơn.
  • Một năm xuân phân (tính giữa hai điểm xuân phân kế tiếp nhau) là khoảng 365,242375 ngày.
  • Quy tắc tính năm nhuận theo lịch Gregory lấy một năm trung bình là 365,2425 ngày.

Sự sai khác rất nhỏ này (trên 0,0001 ngày) có nghĩa là sai số thời gian sẽ tích lũy đủ một ngày trong khoảng 8.000 năm. Nhưng trong thời gian của 8.000 năm thì độ dài của một năm xuân phân cũng sẽ thay đổi theo một lượng mà người ta không thể dự báo chính xác trước (xem dưới đây). Vì thế quy tắc tính năm nhuận của lịch Gregory là đủ thỏa mãn.

Ngày nào là ngày nhuận

Lịch Gregory là bản sửa đổi của lịch Julius được sử dụng bởi người La Mã. Lịch La Mã có nguồn gốc là lịch Mặt Trăng (mặc dù từ thế kỷ 5 TCN nó không còn tuân theo chu kỳ Mặt Trăng nữa) và được đặt tên cho các ngày theo ba tuần (pha) của chu kỳ Mặt Trăng: trăng mới (calends, từ đó có từ "calendar" nghĩa là lịch), phần đầu tiên (nones) và trăng tròn (ides). Các ngày đã được đếm ngược (bao gồm cả ngày này) cho đến ngày kế tiếp được đặt tên, vì thế ngày 24 tháng 2 là ante diem sextum calendas martii ("ngày thứ sáu trước lịch của tháng 3").

Từ năm 45 TCN, tháng 2 trong những năm nhuận có hai ngày được gọi là "ngày thứ sáu trước lịch của tháng 3". Ngày dư ra nguyên thủy là ngày thứ hai trong những ngày được gọi như vậy, nhưng từ thế kỷ 3 nó đã là ngày đầu tiên. Từ đó có thuật ngữ ngày nhuận cho ngày 24 tháng 2 trong năm nhuận.

Khi mà tập quán này được tuân theo, những ngày lễ sau ngày thêm vào đã bị dịch chuyển trong năm nhuận. Ví dụ, ngày lễ trước đây của thánh Matthias, vào ngày 24 tháng 2 trong những năm thường sẽ rơi vào ngày 25 tháng 2 trong năm nhuận.

Tuy nhiên điều tế nhị của lịch sử này đang trong quá trình bị loại bỏ: Liên minh châu Âu thông báo rằng, từ năm 2000, ngày 29 tháng 2 sẽ là ngày nhuận chứ không phải là ngày 24 tháng 2[cần dẫn nguồn], và Giáo hội Công giáo Rôma hiện nay cũng sử dụng ngày 29 tháng 2 như ngày nhuận. Sự khác biệt rõ ràng chỉ có ở những nước kỷ niệm "ngày có tên".

Lịch Julius

Lịch Julius thêm một ngày vào tháng 2 trong những năm chia hết cho 4.

Quy tắc này lấy một năm trung bình dài 365,25 ngày. Sự dôi ra của khoảng 0,0076 ngày trong mối quan hệ với năm xuân phân có nghĩa là ngày xuân phân sẽ dịch chuyển lên sớm hơn trong lịch này cứ sau mỗi 130 năm.

Lịch Julius cải tiến

Lịch Julius cải tiến thêm một ngày vào tháng 2 trong những năm chia hết cho 4. Nhưng đi cùng nó là ngoại lệ: những năm chia hết cho 100 mà khi chia cho 900 không để lại số dư bằng 200 hay 600 thì không phải năm nhuận.

Quy tắc này phù hợp với quy tắc của lịch Gregory cho đến năm 2800 (năm nhuận trong lịch Gregory nhưng không phải trong lịch Julius sửa đổi).

Quy tắc này tính một năm trung bình dài khoảng 365,242222... ngày. Con số này xấp xỉ gần đúng với một năm chí tuyến trung bình, nhưng bởi vì năm xuân phân chí tuyến trung bình là dài hơn một chút nên lịch Julius sửa đổi không thỏa mãn tốt như lịch Gregory trong việc giữ ngày xuân phân rơi đúng hoặc sát với ngày 21 tháng 3.

Lịch Iran

Lịch Iran cũng có một ngày nhuận một lần trong bốn năm, nhưng cứ 33 năm thì năm nhuận rơi vào năm thứ năm thay vì năm thứ tư. Hệ thống sử dụng để tính toán là chính xác hơn và phức tạp hơn, và nó dựa trên cơ sở thời gian diễn ra xuân phân trong tháng 3 được quan sát tại Tehran. Chu kỳ 33 năm là không đều hoàn toàn; cứ mỗi chu kỳ 33 năm sẽ bị tách bởi một chu kỳ có 29 hay 37 năm.

Lịch Trung Quốc là một loại âm dương lịch, vì thế năm nhuận có một tháng thừa, gọi là tháng nhuận. Trong lịch Trung Quốc tháng nhuận được thêm vào phù hợp

Lịch Hebrew

Lịch Hebrew (lịch Do Thái) cũng là một loại âm dương lịch với tháng dôi ra. Trong lịch Hebrew tháng dôi ra được gọi là Adar Rishon (Adar thứ nhất) và được thêm vào trước tháng Adar, mà tháng này sau đó trở thành tháng Adar Sheni (Adar thứ hai). Phù hợp với chu kỳ Mêtôn, nó được thêm vào bảy (7) lần trong chu kỳ mười chín (19) năm, thông thường trong các năm thứ 3, 6, 9, 11, 14, 17, và 19 của chu kỳ này.

Lịch Hêbrơ có quy luật hoãn lại để lui thời điểm bắt đầu của năm từ một đến hai ngày. Năm trước khi có sự hoãn lại có một đến hai ngày dôi ra, và năm mà thời điểm bắt đầu của nó bị lui lại mất một đến hai ngày. Các quy luật hoãn lại này làm giảm số lượng các tổ hợp khác nhau của độ dài năm và ngày bắt đầu của tuần từ 28 xuống 14, cũng như điều chỉnh thời điểm của lễ hội tôn giáo nào đó trong mối tương quan với lễ hội xaba.

Sự sai khác giữa lịch Gregory và năm xuân phân tích lũy đủ 1 ngày trong khoảng 8.000 năm. Điều này có nghĩa là lịch cần phải được hoàn thiện hơn bằng các phương thức tinh vi hơn cho quy tắc năm nhuận: có lẽ bằng cách bỏ năm nhuận trong năm chia hết cho 8.000.

(Phần lớn giống như đề xuất này là bỏ năm nhuận trong năm chia hết cho 4.000 [1]. Đề xuất này dựa trên cơ sở sự sai khác giữa lịch Gregory và năm chí tuyến trung bình. Những đề xuất khác thì cho rằng lịch Gregory tự bản thân nó đã có sự tinh vi giống như thế (một cách sai sót) [2] Lưu trữ 2005-02-07 tại Wayback Machine, [3] Lưu trữ 2005-04-04 tại Wayback Machine.)

Tuy nhiên, ở đây không cần thiết phải có sự tính toán lịch xa đến như vậy bởi vì trong một khoảng thời gian của hàng chục nghìn năm thì số ngày của năm có thể sẽ bị thay đổi vì một loạt các nguyên nhân, đáng kể nhất là:

  1. Tuế sai sẽ dịch chuyển thời điểm của xuân phân trong mối liên quan đến điểm cận nhật và vì thế sẽ thay đổi độ dài của năm xuân phân.
  2. Gia tốc thủy triều từ Mặt Trời và Mặt Trăng làm chậm sự dịch chuyển của Trái Đất, làm cho ngày dài hơn.

 

Cụ thể hơn thì yếu tố thứ hai của sự thay đổi phụ thuộc vào các yếu tố như sự hồi phục hậu băng hà và độ tăng của mực nước biển vì các thay đổi khí hậu. Chúng ta không thể dự đoán trước các thay đổi này một cách chính xác đủ để có thể làm lịch có độ chính xác đến từng ngày trong hàng chục nghìn năm.

Đây là một truyền thống, cho rằng có từ thời kỳ thánh Patriciô và Bridget trong thế kỷ 5. Ở Ireland khi đó phụ nữ chỉ có thể được cầu hôn trong những năm nhuận.

Thánh Patriciô và năm nhuận

Thánh Patriciô, đang đi dọc theo bờ hồ Neagh để xua đuổi những con ếch ra khỏi đầm lầy thì gặp thánh Bridget đang khóc và nói rằng một cuộc nổi loạn đã xảy ra trong nữ tu viện mà bà đang chủ trì, những người phụ nữ đòi hỏi quyền cầu hôn.Thánh Patrick nói rằng ông có thể cho họ quyền này trong năm thứ bảy, khi đó thánh Bridget vòng tay qua cổ ông và kêu lên "Chao ôi, Patrick vàng ngọc, tôi không thể quay lại với các cô gái với lời hứa như vậy. Hãy cho họ một năm trong bốn." Thánh Patrick trả lời, "Bridget, hãy ôm tôi như thế một lần nữa và tôi sẽ cho cô năm nhuận, năm dài nhất của số mệnh." Thánh Bridget, nhờ điều này, đã cầu hôn với thánh Patrick, là người tất nhiên không thể cưới vợ: vì thế ông đã dàn xếp khó khăn theo cách tốt nhất mà ông có thể làm là nụ hôn và áo dài bằng lụa.(Nguồn: Evans Ivor H, Brewer's Dictionary of Phrase and Fable, Cassell, London, 1988)

Theo như luật năm 1288 ở Scotland, nếu người đàn ông từ chối lời cầu hôn thì họ phải nộp phạt; mức phạt có thể là từ nụ hôn tới áo dài lụa hay đánh đòn nhẹ. Vì những người đàn ông cảm thấy điều này đưa họ vào những rủi ro lớn, ở một vài nơi thì truyền thống này đã bị làm chặt chẽ hơn để cấm người phụ nữ cầu hôn vào ngày 29 tháng 2.

  • Năm nhuận thế kỷ
  • Cải cách lịch pháp

  • Leap year (Calendar) tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh)
  • Năm nhuận tại Từ điển bách khoa Việt Nam
    • Dương lịch tại Từ điển bách khoa Việt Nam
    • Âm dương lịch tại Từ điển bách khoa Việt Nam

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Năm_nhuận&oldid=68577314”