Bài tập về tội cố ý gây thương tích năm 2024

  • 1. NGHIỆP TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC LÀM TỔN HẠI SỨC KHỎE CHO NGƯỜI KHÁC Tham khảo thêm tài liệu tại Luanvantot.com Dịch Vụ Hỗ Trợ Viết Thuê Tiểu Luận,Báo Cáo Khoá Luận, Luận Văn Zalo Hỗ Trợ : 0934.573.149
  • 2. 5 1. Lý do chọn đề tài.................................................................................... 5 2. Mục tiêu nghiên cứu................................................................................ 6 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................ 6 4. Phương pháp nghiên cứu......................................................................... 7 5. Kết cấu đề tài.......................................................................................... 7 NỘI DUNG.................................................................................................... 8 CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤNĐỀLÝ LUẬN VỀ TỘICỐ ÝGÂYTHƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE NGƯỜI KHÁC............................... 8 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác.................................................................. 8 1.1.1. Khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác.............................................................................................. 8 1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác ....................................................................... 10 1.2. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển pháp luật hình sự Việt Nam về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác............. 13 1.2.1. Giai đoạntừ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi pháp điển hoá hoá Bộ luật hình sự năm 1985 ......................................................... 13 1.2.2. Giai đoạntừ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến khi pháp điển hoá Bộ luật hình sự năm 1999 ........................................................ 15 1.2.3. Giai đoạntừ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 đến khi pháp điển hoá Bộ luật hình sự năm 2015 ........................................................ 17 1.2.4. Giai đoạn từ khi Bộ luật hình sự năm 2015 đến nay....................... 19
  • 3. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC LÀM TỔN HẠI SỨC KHỎE CHO NGƯỜIKHÁC, THỰC TIỄNÁP DỤNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀNTHIỆN .......................................................................Error! Bookmark not defined. 2.1. Các dấu hiệu cấu thành tội cố ý gây thương tíchhoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác .....................................Error! Bookmark notdefined. 2.1.1. Khách thể tội cố ý gây thương tíchhoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác................................................Error! Bookmark notdefined. 2.1.2. Khách quan tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác..........................................Error! Bookmark notdefined. 2.1.3. Chủ thể tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác................................................Error! Bookmark notdefined. 2.1.4. Chủ quan tội cố ý gây thương tíchhoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác................................................Error! Bookmark notdefined. 2.2. Hình phạt đốivới tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác .............................................Error! Bookmark notdefined. 2.3. Hậu quả pháp lý tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác .............................................Error! Bookmark notdefined. 2.4. Thực tiễn áp dụng những quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc làm tổn hại sức khỏe cho người khác ...........Error! Bookmark notdefined. 2.4.1. Định tội sai......................................Error! Bookmark notdefined. 2.4.1.1. Vụ việc.....................................Error! Bookmark notdefined. 2.4.1.2. Vướng mắc và đề nghị...............Error! Bookmark notdefined. 2.4.2. Định khung bị can gây thương tích cho 02 người với tỷ lệ thương tích trong 02 khung khác nhau ...................Error! Bookmark notdefined. 2.4.2.1. Vụ việc.....................................Error! Bookmark notdefined. 2.4.2.2 Vướng mắc và đề nghị................Error! Bookmark notdefined.
  • 4. hoàn thiện pháp luật về tội cố ý gây thương tíchhoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác....................Error! Bookmark notdefined. 2.5.1. Hoàn thiện trong việc xác định các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ khi định tội.....................................................Error! Bookmark notdefined. 2.5.1.1 Phạm tội có tính côn đồ..............Error! Bookmark notdefined. 2.5.1.2 Phạm tội có động cơ đe hèn........Error! Bookmark notdefined. 2.5.2 Hoàn thiện những khó khăn trong việc khởi tố theo yêu cầu bị hại .................................................................Error! Bookmark notdefined. 2.5.3 Tăng cường công tác giải thích, hướng dẫn luật ....Error! Bookmark not defined. 2.5.4. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục về các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác...Error! Bookmark not defined. KẾT LUẬN.....................................................Error! Bookmark not defined. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............Error! Bookmark not defined.
  • 5. Lý do chọn đề tài Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong những năm trở lại đây đã và đang diễn biến hết sức phức tạp, ngày càng có chiều hướng gia tăng trong phạm vi cả nước. Hậu quả mà các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là rất lớn, có thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe, tinh thần của người bị hại; ảnh hưởng tới tình hình trật tự, an ninh của xã hội;…Đặc biệt, những năm gần đây dưới sựảnh hưởng nhiều của phim ảnh bạo lực và nhiều yếu tố khác tình hình tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ngày càng diễn biến phức tạp, người phạm tội ngày càng liều lĩnh, coi thường tính mạng con người cũng như coi thường pháp luật. Trong đó vấn đề cần quan tâm là tình trạng thanh thiếu niên tụ tập gây mâu thuẫn để đánh nhau, các mâu thuẫn trong tranh chấp đất đai, làm ăn kinh tế, xung đột gia đình không được giải quyết tốt (đôi khi chỉ là xích mích nhỏ trong đời sống hằng ngày) đãdẫn đến việc cố ý xâm phạm sức khỏe của người khác, gây hậu quả rất lớn, tỷ lệ thương tíchgây ra cho người bị hại cũng rất cao, có những trường hợp dẫn đến chết người, ngay cảnhiều trường hợp xảy người bịhại và người gây án đều bịthương tích, đều bị tổn hại. Phần lớn những người phạm tội thường liên kết thành các băng, nhóm hoặc lôi kéo thêm người khác vào cùng gây mâu thuẫn để tạo cớ đánh nhau hay trả thù cá nhân (trong đó nhiều vụ mang tính chất tổ chức, tính chất xã hội đen). Đối tượng thường sử dụng các loại hung khí nguy hiểm (dao, xà beng, công cụ tự chế) để gây thương tích cho người khác. Thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác cho thấy, còn có nhiều bất cập, vướng mắc, nhiều vụ án việc định tội rất phức tạp, dễ dẫn đến xét xử oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm. Quy định của pháp luật hình sự về về tội cố ý gây thương
  • 6. tổn hại sức khỏe của người khác còn chưa thống nhất, chưa phù hợp với thực tiễn. Vì vậy, việc nghiên cứu sâu sắc những vấn đề lý luận tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác và thực trạng quá trình điều tra, truy tố, xét xử tội phạm này trong thực tiễn không những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Vì vậy, tôichọnđềtàinghiên cứu:“Tộicốýgâythươngtích hoặclàmtổn hạisức khỏechongườikháctheoluậtHìnhsựViệtNam– Mộtsốvấn đềlýluận và thựctiễn”. 2. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu là làm sáng tỏ một cáchcó hệ thống về mặt lý luận những quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác theo luật hình sự Việt Nam và việc áp dụng quy định này trong thực tiễn. Từ đó xác định những bất cập để đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng những quy định Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác. 3. Đốitượng và phạm vi nghiên cứu Về đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề lý luận chung và thực tiễn áp dụng về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác, cụ thể là: khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác và ý nghĩa của việc quy định tội phạm này trong luật hình sự Việt Nam; mặt chủ quan, mặt khách quan, khách thể, chủ thể, trách nhiệm hình sự (TNHS),… Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu bao gồm những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong Bộ luật hình sự. Đồng thời, cũng có đề cập đến một số quy phạm của Bộ luật Tố tụng hình sự nhằm hỗ trợ cho việc giải quyết mục tiêu và đối tượng nghiên cứu.
  • 7. nghiên cứu Đề tài đã sửdụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình sự và tội phạm học như: phương pháp phương pháp phân tích và so sánh, phương pháp tổng hợp,…Ngoài ra, còn một số phương pháp khác cũng được áp dụng như: Phương pháp thống kê, tổng kết hằng năm trong các báo cáo của ngành TAND, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và địa phương cũng như các tài liệu vụ án hình sự trong thực tiễn xét xử, cũng như thông tin trên mạng internet,… 5. Kết cấu đề tài Nội dung đề tài nghiên cứu được kết cấu gồm hai chương sau: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác . Chương 2: Những quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội cố ý gây thương tíchhoặc làm tổn hại sức khỏe cho người khác, thực tiễn áp dụng và phương hướng hoàn thiện.
  • 8. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE NGƯỜI KHÁC 1.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc quy định tội cố ý gâythương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác 1.1.1. Khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác Trong khoa học pháp lý hình sự, khái niệm tội phạm là một trong những vấn đề trung tâm được nghiên cứu vì vậy có rất nhiều quan điểm và định nghĩa về tội phạm khác nhau. Tuy nhiên trên cơ sở pháp lý quy định tại điều 8, chương III của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mạithực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổchức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm nhữnglĩnh vực khác của trật tự pháp luậtxã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”. Quy định về tội phạm nêu trên có thể coilà quy định có tính khoa học, thể hiện tập trung nhất quan điểm của Nhà nước ta về tội phạm. Nội hàm của khái niệm tội phạm có các dấu hiệu cơ bản làm căn cứ để phân biệt tội phạm với những hành vi không phải là tội phạm, đó là: tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính trái pháp luật hình sự và tính phải chịu hình phạt. Trên cơ sở đó tác giả đưa ra khái niệm về các tội cố ýgây thương tích(CYGTT) hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác như sau: “Tội CYGTT hoặc gây tổn hại sức khỏe của ngườikhác là hành vicố ý trái pháp luậtcủa ngươicó năng lực TNHS
  • 9. thân thể của người khác gây thương tích hoặc tổn hạiđến sức khỏe”. TộiCYGTT hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác thực chất là hai tội được quy định trong một điều luật, tuy nhiên do hành vi và hậu quả của chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau nên hai loại này được các nhà làm luật sắp xếp vào cùng một điều luật. Từ khái niệm trên có thể thấy tội CYGTT hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác có những đặc điểm, đó là: Tính nguy hiểm cho xã hội: Được biểu hiện ở chỗ người phạm tội có hành vi cố ý tác động trái pháp luật lên thân thể của người khác, làm tổn thương một phần hay toàn bộ cơ thể của người khác dẫn đến việc người bị hại bị thương tích hoặc bị tổn hại đến sức khỏe ở một tỷ lệ nhất định. Tính có lỗi: Lỗi đối với tội CYGTT hặc gây tổn hại sức khỏe của người khác theo quy định của BLHS là lỗi cố ý. Tức người phạm tội nhận thức rõ hành vi tác động trái pháp luật lên cơ thể người khác là hành vi có thể gây thương tích và mong muốn gây thương tích cho nạn nhân hoặc chấp nhận để cho hậu quả nạn nhân bị thương tích, bị tổn hại sức khỏe xảy ra, đây là dấu hiệu bắt buộc của loại tội phạm này. Tính chịu trách nhiệm hình sự: Là dấu hiệu cơ bản của loại tội phạm, chỉ có hành vi phạm tội mới phải chịu hình phạt theo quy định của BLHS. Đối với tội CYGTT hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, các hình phạt được quy định trong BLHS đểáp dụng đốivới người thực hiện tội phạm này là: cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, tù chung thân. Việc nghiên cứu các đặc điểm pháp lý của tội phạm cụ thể đóng vai trò quan trọng giúp chúng ta phân biệt giữa tội phạm này với tội phạm khác để từ đó chúng ta mới đưa ra những kết luận chính xác về tội phạm như tội đó thuộc loại tội nào, tính chất nguy hiểm của tội đó ra sao, người thực hiện hành vi phạm tội đó có phải
  • 10. hình sự hay không, tất cả những việc đó giúp chúng ta trong việc định tội danh đúng đối với tội phạm cụ thể. 1.1.2. Ý nghĩa của việcquy địnhtội cố ý gâythương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác Tộicố ý gây thương tíchhoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 1999 của nước ta, có ý nghĩa về mặt lập pháp hình sự hết sức to lớn. Nó đánh dấu sự trưởng thành về kỹ thuật lập pháp hình sự của nước ta trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người nói chung, bảo vệ sức khỏe của con người nói riêng. Việc chính thức ghi nhận về mặt pháp lý hình sự tội cố ý gây thương tíchhoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành là một biểu hiện cụ thể của việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người được ghi nhận tại Hiến pháp năm 2013: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Việc quy định tội cố ý gây thương tíchhoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong Bộ luật hình sự Việt Nam có những ý nghĩa sau đây: Thứ nhất, hạn chếviệc lợi dụng việc quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhằm xâm phạm đến sức khỏe của người khác một cách tùy tiện, trái pháp luật. Việc quy định cụ thể tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong pháp luật hình sự thể hiện quyết tâm bảo vệ sức khỏe của con người. Bởi lẽ, trong các trường hợp này, người phạm tội vẫn có lỗi, và khi có lỗi thì họ dù nặng hay nhẹ họ vẫn phải chịu TNHS về phần lỗi đó của mình nếu dấu hiệu khác thỏa mãn cấu thành tội phạm được quy định trong luật. Điều này góp phần tích
  • 11. chế việc lợi dụng sự có lỗi trước của nạn nhân để có những hành vi xâm phạm đến sức khỏe của người khác một cách tùy tiện, trái pháp luật. Thứ hai, tạo cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh phòng, chống các hành vi xâm phạm đến sức khỏe của người khác. Đạo luật hình sự giữ một vai trò hết sức quan trọng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng, bởi vì chỉ văn bản này mới quy định hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là tội phạm và hình phạt có thể áp dụng đối với người đã gây ra hành vi đó. Việc Nhà nước quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được áp dụng đối với người phạm tội là nhân danh ý chí của nhân dân, là sự thể hiện thái độ của nhân dân (thông qua Nhà nước đốivới tội phạm). Quy phạm pháp luật hình sựvề tội cố ý gây thương tíchhoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác vừa có tính chất cấm chỉ, vừa có tính chất bắt buộc. Quy phạm này, một mặt cấm người ta không được thực hiện hành vi gây thương tíchhoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác bằng sự răn đeáp dụng hình phạt đốivới người phạm tội. Mặt khác, quy phạm pháp luật hình sự này cũng buộc các cơ quan có trách nhiệm khi phát hiện có dấu hiệu của tội cố ý gây thương tíchhoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì phải điều tra, truy tố, xét xử một cách nghiêm minh, buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự. Thứ ba, thể hiện sự quan tâm của nhà nước ta đốivới việc bảo vệ và phát triển quyền con người nói chung, sức khỏe của con người nói riêng. Con người là nhân tố quan trọng không thể thiếu trong xã hội, con người với bàn tay lao động và trí óc sáng tạo đã xây dựng và phát triển một xã hội ngày càng tươi đẹp. Vì thế bảo vệ con người tạo dựng một xã hội trong sạch và lành mạnh cho sự phát triển của con người là nhiệm vụ quan trọng của mỗi đất nước, đặc biệt là ở các đất nước hiện đại vấn đề con người càng được quan tâm hơn bao giờ hết. Xã hội
  • 12. triển thì việc bảo vệ con người và các lợi ích của con người càng được chú trọng. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước ta luôn xác định conngười vừa là mục tiêu, vừa là độnglực của sự nghiệp xây dựng đất nước. Nhà nước ta khẳng định, con người là trung tâm của các chính sáchkinh tế- xã hội, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người nói chung, bảo vệ nhân phẩm, danh dự của con người nói riêng, là nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững, bảo đảm thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc pháp luật hình sự hiện hành quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác về quyền conngười trong hệ thống pháp luật Việt Nam chứng tỏ mọi chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta đều nhằm phấn đấu cho mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, tất cả vì con người và cho con người. Thứ tư, bảo vệ sức khỏe của con người góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Việc pháp luật hình sự hiện hành quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏecủa người khác góp phần quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe của con người đồng thời góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế đất nước, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội. Tuy nhiên, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải áp dụng đúng đắn những quy định của pháp luật hình sựvề tội phạm nói chung, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Việc áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác một cáchtùy tiện, không đúng pháp luật, bịcoilà những hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng, bởi nó không những xâm hại hoạt động đúng đắn của các cơ quan bảo vệ pháp luật, mà còn làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Do vậy, việc quy định một cách chặt chẽ
  • 13. gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong pháp luật hình sự và việc áp dụng đúng đắn nó trong thực tiễn, thể hiện sựtôn trọng quyền con người của Nhà nước ta, bảo đảm sự giám sát của nhân dân, xã hội trong hoạt độngđiều tra truy tố, xét xử nói chung và điều tra, truy tố, xét xử tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng. Việc quy định tội cố ý gây thương tíchhoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong pháp luật hình sự hiện hành, ngoài ý nghĩa về mặt lập pháp hình sự, con có ý nghĩa nâng cao nhận thức của nhân dân nói chung, cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng về sự cần thiết phải bảo vệ sự khỏe của con người. Mặt khác, việc quy định cụ thể về tội cố ý gây thương tíchhoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong pháp luật hình sự còn giúp các cơ quan bảo vệ pháp luật nắm vững nội dung, bản chất pháp lý, từ đó áp dụng đúng đắn quy phạm pháp luật hình sự này, góp phần nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội cố ý gây thương tíchhoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngườikhác, động viên quần chúng nhân dân tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội này. 1.2. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển pháp luật hình sự Việt Nam về tội cố ý gâythương tích hoặc gâytổn hại cho sức khỏe người khác 1.2.1. Giaiđoạn từ cách mạngtháng 8 năm 1945đến trước khi pháp điển hoá hoá Bộ luậthình sự năm 1985 Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền nhân dân non trẻ mới được thành lập phải đối mặt với những khó khăn vật chất. Trước tình hình đó nhân dân ta phải đối mặt với ba nhiệm vụ lớn là tiêu diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Vì vậy, sau ngày Hồ Chủ tịch đọc bản Tuyên ngôn độc lập, Nhà nước ta đã ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật hình sự để tạo cơ sở pháp lý cho việc trấn áp tội phạm bằng các sắc lệnh trên các lĩnh vực như trừng trị phản động, âm mưu hành động phản quốc, sắc lệnh quy định về trốn tránh nghĩa vụ, sắc lệnh về phòng, chống
  • 14. cụ thể như hành vi trộm cắp, phá hủy... Tuy nhiên, trong tình hình cấp bách, các văn bản pháp luật nói chung cũng như các văn bản pháp luật hình sự nói riêng mới ban hành không thể đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội đa dạng. Vì thế ngày 10/10/1945, Nhà nước đã ban hành Sắc lệnh số 47/SL tạm thời giữ lại các luật lệ cũ không mâu thuẫn với chế độ mới, không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trong đó có Luật hình An Nam, Hoàng Việt hình luật và Hình luật pháp tu chính. Mặc dù thời gian không nhiều, lại phải đối mặt với rất nhiều khó khăn nhưng Nhà nước ta trong thời kì này đã thể hiện một sự tiến bộ đáng kể so với Nhà nước phong kiến tồn tại lâu dài trước đó trong công tác lập pháp hình sự. Với sự cố gắng đó pháp luật hình sự đã trở thành công cụđắc lực của chínhquyền dân chủ nhân dân trong công cuộc củng cố lực lượng, trấn áp tội phạm. Trong chế độ ta thì con người luôn được xác định là vốn quý nhất, chính vì vậy, ngay từ những ngày đầu tiên sau khi miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, Chính phủ đãban hành Thông tư số 442-TTgngày 19/01/1955 của Thủ tướng Chính phủ chính thức quy định tội cố ý gây thương tích. Cụ thể là, tại điểm 3 của thông tư có quy định: “Đánh bị thương phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm”; “đánh bị thương có tổ chức hay gây thành cố tật, hay gây chết người có thể phạt đến 20 năm”. Quy định trên được áp dụng ở miền Bắc từ năm 1955 đến năm 1976. Thông tư đã đưa ra được ba tình tiết tăng nặng định khung hình phạt, đó là “có tổ chức”, “gây thành cố tật” hoặc “gây chết người”. Điều này thể hiện bước tiến bộ về kỹ thuật lập pháp hình sự của nước ta. Tuy nhiên, thông tư này chưa đưa ra được khái niệm “đánh bị thương”, cũng như chưa làm rõ được trường hợp đánh bị thương dẫn đến chết người với trường hợp giết người. Sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, để đảm bảo an ninh trật tự và đáp ứng yêu cầu của tình hình nhiệm vụ mới, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đãban hành Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15/3/1976 quy định
  • 15. và hình phạt với 7 loại tội phạm, trong đó có quy định về tội cố ý gây thương tích. Tại điểm b điều 5 Sắc luật số 03-SL/76 quy định: “Phạm tội cố ý gây thương tíchthì bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm, trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 20 năm”. Ngày 02/7/1976 Quốc hộichính thức đổitên nước ta thành nước Cộnghòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, pháp luật được áp dụng chung cho cảnước. Do vậy, đểgiải quyết các vụ án cố ý gây thương tích, chúng ta chủ yếu áp dụng điểm b Điều 5 Sắc luật số 03-SL/76 nói trên cho đến trước khi BLHS 1985 ra đời. Thể chế hóa văn bản trên, hàng năm Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) vẫn tổng kết, hướng dẫn các cơ quan bảo vệ pháp luật để các cơ quan này thực hiện tốt chức năng xét xử của mình. Ngày 27/6/1985 là thời điểm đánh dấu bước chuyển biến mang tính lịch sử, đánh dấu thời điểm quan trọng trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam. Đây là ngày mà Quốc hộinước Cộnghòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VII kỳ họp thứ 9 thông qua BLHS Việt Nam đầu tiên. Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người đã được quy định tại chương II ngay sau chương các tội xâm phạm an ninh quốc gia. Điều này, một lần nữa lại minh chứng cho sự coi trọng của Nhà nước ta đối với quyền được bảo hộ về sức khỏe của công dân. 1.2.2. Giaiđoạn từ khi ban hành Bộ luậthình sự năm 1985 đến khi pháp điển hoá Bộ luậthình sự năm 1999 Bộ luật Hình sự của năm 1985, với tư cáchlà văn bản lập pháp hình sự lớn và quan trọng đầu tiên mà trong đó chứa đựng hệ thống pháp luật hình sự thực định đã được pháp điển hóa của Nhà nước Việt Nam thống nhất sau 40 năm kể từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (năm 1945) và sau 10 năm kể từ khi đất nước đã được thống nhất và thu về một mối (năm 1975) thì trong suốt 14 năm áp dụng Bộ luật Hình sự của năm 1985 (nếu tính đến năm 1999 khi có Bộ luật Hình sự thứ hai) như là nguồn trực tiếp duy nhất của pháp luật hình sự thực định nước nhà sau pháp
  • 16. trong đó lần đầu tiên đã có sựphân chia rõ ràng giữa các quy phạm của Phần chung và Phần riêng với cơ cấu gồm 12 chương và được phân chia thành 280 điều để kịp thời điều chỉnh về mặt pháp lý hình sự các quan hệ xã hội đang tồn tại và đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm ở nước ta trong suốt 14 năm từ giữa những năm 80 đến cuối những năm 90 của thế kỷ XX (1985- 1999). Tội cố ý gây thương tích hoặc làm tổn hại sức khỏe cho người khác quy định tại điều Điều 109 với nội dung như sau: “1- Người nào cố ý gây thương tíchhoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm. 2- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Gây thương tíchnặng hoặc gây tổn hại nặng cho sức khoẻ của người khác; b) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; c) Có tính chất côn đồn hoặc tái phạm nguy hiểm; 3- Phạm tội gây cố tật nặng dẫn đến chết người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác thì bị phạt tù từ năm năm đến hai mươi năm. 4- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định ở điểm a khoản 2, ở khoản 3 Điều này mà do bị kích động mạnh vì hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân hoặc trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm.” Mặc dù lần sửa đổibổ sung lần thứ 4 đã đề cập được những vấn đề mang tính thời sự, cấp thiết, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới nhưng vẫn còn mang tính bộ phận, chỉ đáp ứng được các yêu cầu bức xúc, thời sự trước tình hình tội phạm có chiều hướng gia tăng trong điều kiện xã hội đang chuyển đổi cơ chế, cái cũ mất đi
  • 17. thế, cái mới ra đời và chưa vững chắc, nhiều quy định của Bộ luật không còn phù hợp (trong đó có Điều 109). Yêu cầu đổimới mọi mặt của đời sống xã hội đặt ra nhiệm vụ xem xét để sửađổibổ sung Bộ luật này một cáchcơ bản, toàn diện, nhằm kịp thời thể chế hóa chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn cách mạng mới, bảo đảm hiệu quả cao của cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, góp phần đắc lực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình đất nước đổi mới và hội nhập, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhận thức và áp dụng BLHS một cách thống nhất. Đó là những đòihỏi có tính chất khách quan cho sự ra đời của BLHS năm 1999. 1.2.3. Giaiđoạn từ khi ban hành Bộ luậthình sự năm 1999 đến khi pháp điển hoá Bộ luậthình sự năm 2015 Bộ luật hình sự năm 1999 đã thể chế hóa những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sáchcủa Nhà nước trong giai đoạnmới. Đặc trưng cơ bản của pháp luật hình sự trong giai đoạn này thể hiện trong BLHS năm 1999 là: Điều chỉnh tối đa về mặt lập pháp những chế định cơ bản, quan trọng của luật hình sự; phân hóa triệt để TNHS và hình phạt; nêu cao tinh thần nhân đạo của luật hình sự. BLHS 1999 có nhiều nội dung mới so với BLHS 1985 được thể hiện cả ở phần chung và phần các tội phạm, thể hiện rõ những điểm mới trong chính sách hình sự của Nhà nước ta nói chung, đối với tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người nói chung. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác được quy định cụ thể tại Điều 104 BLHS 1999 như sau: “1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
  • 18. khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người; b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân; c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người; d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; e) Có tổ chức; g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê; i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm; k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân. 2. Phạm tội gây thương tíchhoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. 3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm. 4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.” Đốivới tội cố ý gây thương tíchhoặc gây tổn hại cho sức khỏecủa người khác (Điều 104) được cấu tạo lại theo hướng: Lấy tỷ lệ thương tật làm căn cứ xác định trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Tuy nhiên, do yêu cầu của việc đấu tranh phòng chống loại tội phạm này nên nhà làm luật quy định thêm một số trường
  • 19. vi cố ý gây thương tích cho người khác có tỷ lệ thương tật dưới mức quy định vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Các trường hợp phạm tội này cũng là dấu hiệu định khung hình phạt. Trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự, có nhiều trường hợp tương tự như các tình tiết định khung hình phạt của tội giết người, có trường hợp đã được quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985, có trường hợp thực tiễn xét xử đã được tổng kết và hướng dẫn. Tuy BLHS 1999 được xem là một bước tiến khá thành công trong Luật pháp Việt Nam, mọi quyền công dân đã dần hoàn thiệt đặc biệt các phần tội phạm xâm hại tính mạng, Nhưng cùng với sựphát triển của xã hội, tội phạm ngày càng tinh vi, xảo quyệt từ đó càng phát hiện lỗ hổng trong luật hình sựgây ra các luồng quan điểm khác nhau của các cơ quan tiến hành tố tụng, thậm chí dẫn đến bỏ loạt tộiphạm đặc biệt tội phạm quốc tế và pháp nhân thương mại. Đó cũng chính là lý do cho Bộ luật hình sự 2015 ra đời. 1.2.4. Giaiđoạn từ khi Bộ luậthình sự năm 2015đến nay Ngày 20/6/2017, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2015, Bộ luật Hình sự có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018. Tại Điều 134 BLHS năm 2015 tiếp tục quy định tội Cố ý gây thương tíchhoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, so với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác quy định tại Điều 104 BLHS năm 1999 thì Điều 134 BLHS năm 2015 có rất nhiều điểm mới. Những điểm mới này nếu như không có hướng dẫn kịp thời sẽ là những khó khăn, vướng mắc trong điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, cụ thể như sau: Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 đã bổ sung mới tình tiết “dùng vũ khí, vật liệu nổ; dùng a xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; phạm
  • 20. gian đang chấp hành hình phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê”. Sửa đổitình tiết “Đối với trẻ em” thành “Đốivới người dưới 16 tuổi”, “phụ nữ đang có thai” thành “phụ nữ mà biết là có thai”; “Để cản trở người thi hành công vụ” thành “Đối với người thi hành công vụ”. Loại bỏ các tình tiết“Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân; phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đốivới nhiều người; tái phạm nguy hiểm”. Đây là những tình tiết định tội trong trường hợp gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể dưới 11% (Khoản 1 Điều 134); là tình tiết định khung tăng nặng tại Khoản 2 (trong trường hợp tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%); Khoản 3 (trong trường hợp tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% hoặc gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%); Khoản 4 (trong trường hợp tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%); Khoản 5 (gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 61% trở lên). Tại các khoản 2,3,4 Điều 134 có bổ sung một số tình tiết mới là những tình tiết định khung tăng nặng, đó là: “phạm tội hai lần trở lên; tái phạm nguy hiểm (Khoản 2 Điều 134); “gây thương tích làm biến dạng vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên” Khoản 4 Điều 134. Tại khoản 5 Điều 134 BLHS 2015 đã cụ thể hóa các tình tiết dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác quy định tại khoản 4 BLHS 1999, đó là: “phạm tội dẫn đến chết nhiều người” thành “làm chết hai người trở lên”; “trường hợp đặt biệt nghiêm trọng khác” cụ thể thành “gâyt hương tíchhoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61%
  • 21. thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này” Điểm mới quan trọng mà chúng ta cần lưu ý đó là, tại Khoản 6 Điều 134 đã quy định: “Người nào chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm”.Bản chất của Khoản 6 Điều 134 là chế định chuẩn bị phạm tội, lần sửa đổi này, nhà làm luật đã quy định trong tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác một khoản với một khung hình phạt riêng đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội ( người thực hiện hành vi chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác). Về hình phạt, Điều 134 BLHS năm 2015 có 06 khung hình phạt (tăng 02 khung so với BLHS 1999) đồng thời đã rút ngắn khoảng cách khung hình phạt. Khoản 2 đã giảm mức hình phạt tù tối đa từ 07 năm xuống thành 06 năm; khoản 3 có hình phạt tù từ 05 năm đến 10 năm; khoản 4 có hình phạt tù từ 07 năm đến 14 năm; khoản 5 có hình phạt tù từ 12 năm đến đến 20 năm hoặc tù chung thân. Đây là những điểm mới có lợi đối với người phạm tội cố ý gây thương tích mà chúng ta phải lưu ý khi áp dụng pháp luật và quyết định hình phạt.