Apec là hình thức liên kết gì năm 2024

Là cơ chế hợp tác kinh tế hàng đầu tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương, APEC đã mang lại nhiều lợi ích về chiến lược, kinh tế, thương mại và đầu tư, góp phần thúc đẩy phát triển toàn diện của đất nước.

APEC là diễn đàn quy tụ nhiều đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và là các đối tác kinh tế, thương mại quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Nhiều Hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam đang đàm phán hoặc đã ký kết là với các thành viên APEC. Điều này cho thấy tầm quan trọng của APEC đối với phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế của Việt Nam.

Tham gia APEC góp phần quan trọng nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam. Là thành viên APEC, Việt Nam có vai trò, tiếng nói bình đẳng với nhiều nền kinh tế hàng đầu thế giới trong việc xây dựng, định hình các luật lệ, quy tắc về kinh tế, thương mại khu vực. Điều này có ý nghĩa quan trọng để Việt Nam đẩy mạnh triển khai chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế và nâng tầm đối ngoại đa phương.

APEC là kênh quan trọng để Việt Nam thúc đẩy quan hệ song phương, góp phần tạo lợi ích dài hạn và đưa quan hệ với các đối tác đi vào chiều sâu, củng cố môi trường hòa bình, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển đất nước.

Hội nghị Bộ trưởng APEC lần thứ 18 diễn ra tại Hà Nội, tháng 11/2006. (Ảnh: APEC.ORG)

Hội nghị Bộ trưởng APEC lần thứ 18 diễn ra tại Hà Nội, tháng 11/2006. (Ảnh: APEC.ORG)

Với vai trò chủ nhà APEC năm 2006, Việt Nam đã thúc đẩy thực chất quan hệ song phương với nhiều đối tác, nhất là qua các chuyến thăm của các nhà lãnh đạo Trung Quốc, Mỹ, Nga, Nhật Bản nhân dịp Hội nghị cấp cao APEC. Thành công của các chuyến thăm song phương và hàng chục cuộc hội đàm, tiếp xúc song phương trong Tuần lễ cấp cao APEC 2017 tiếp tục góp phần tăng cường quan hệ song phương giữa Việt Nam với nhiều đối tác trong khu vực.

Tham gia APEC và thực hiện các cam kết về mở cửa thương mại, đầu tư, thuận lợi hóa kinh doanh góp phần tạo động lực thúc đẩy cải cách trong nước, từng bước hoàn thiện thể chế chính sách, quy định phù hợp với các cam kết quốc tế. Tham gia APEC tạo tiền đề để Việt Nam tham gia những sân chơi rộng lớn và có mức độ cam kết lớn hơn, như Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), các FTA thế hệ mới.

Là thành viên APEC, Việt Nam được hưởng những hỗ trợ nâng cao năng lực hội nhập quốc tế. Một trong ba trụ cột chính của APEC là hợp tác kinh tế-kỹ thuật, hỗ trợ các nền kinh tế đang phát triển nâng cao năng lực cải cách kinh tế và hội nhập khu vực, góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển. Việc triển khai các cam kết, đồng bộ hóa chính sách, cùng các dự án hỗ trợ của APEC đã góp phần nâng cao năng lực hội nhập quốc tế cho các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp, tăng cường kiến thức và kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập. Các chương trình hợp tác về tăng cường trao đổi sinh viên, thúc đẩy du lịch, giao lưu nhân dân... đem lại nhiều cơ hội lớn đối với người dân, nhất là thế hệ trẻ.

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thái Lan Prayut Chan-o-cha, sáng 16/11, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và Phu nhân cùng Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam rời Thủ đô Hà Nội, bắt đầu chuyến thăm chính thức Vương quốc Thái Lan và tham dự Hội nghị các Nhà lãnh đạo kinh tế APEC lần thứ 29 được tổ chức tại Thái Lan từ ngày 16-19/11. (Ảnh: TTXVN)

Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Thái Lan Prayut Chan-o-cha, sáng 16/11, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và Phu nhân cùng Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam rời Thủ đô Hà Nội, bắt đầu chuyến thăm chính thức Vương quốc Thái Lan và tham dự Hội nghị các Nhà lãnh đạo kinh tế APEC lần thứ 29 được tổ chức tại Thái Lan từ ngày 16-19/11. (Ảnh: TTXVN)

APEC mang đến những tiềm năng và cơ hội to lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam. Đối thoại giữa các nhà lãnh đạo APEC với Hội đồng Tư vấn doanh nghiệp APEC (ABAC) và Hội nghị cấp cao doanh nghiệp APEC hằng năm là dịp quan trọng để cộng đồng doanh nghiệp đề xuất khuyến nghị lên các nhà lãnh đạo, chủ động tham gia đóng góp xây dựng chính sách liên kết kinh tế khu vực, đồng thời tạo khuôn khổ để doanh nghiệp Việt Nam kết nối với các tập đoàn hàng đầu thế giới.

APEC cũng hỗ trợ các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong tiếp cận thị trường, thụ hưởng môi trường đầu tư, kinh doanh và điều kiện đi lại thuận lợi, tìm kiếm các nhà đầu tư chiến lược, tiếp cận công nghệ và trình độ quản lý tiên tiến.

Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (tiếng Anh: Asia-Pacific Economic Cooperation, viết tắt làAPEC) là tổ chức quốc tế của các quốc gia nằm trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương với mục tiêu tăng cường mối quan hệ về kinh tế và chính trị.

Trụ sở chính: Singapore

Quốc gia thành viên: 21

Ngày thành lập: 11-1989

Diễn đàn tổ chức các kỳ họp thường niên lần lượt tại mỗi quốc gia thành viên, cũng có những uỷ ban thường trực chuyên trách nhiều lãnh vực khác nhau từ truyền thông đến ngư nghiệp.

Cho đến nay, hầu hết các nước nằm bên bờ Thái Bình Dương đều gia nhập tổ chức này, ngoại trừ: Colombiathuộc khu vực Nam Mỹ; Guatemala, Salvador, Nicaragua,Honduras, Costa Rica và Panama thuộc khu vựcTrung Mỹ; Campuchia và Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên ở châu Á; các đảo quốc Thái Bình Dương Fiji, Tonga và Samoa.

Người đứng đầu chính phủ của tất cả thành viên APEC gặp nhau mỗi năm một lần trong một kỳ họp thượng đỉnh được gọi là "Hội nghị Lãnh đạo APEC", được tổ chức lần lượt tại mỗi nền kinh tế thành viên APEC. APEC nổi tiếng với truyền thống yêu cầu các nhà lãnh đạo xuất hiện trước công chúng trong quốc phục của nước chủ nhà.

APEC được thành lập vào tháng 11 năm 1989 với 12 thành viên sáng lập: Australia, Nhật Bản, Malaysia, Hàn Quốc, Thái Lan, Philippines, Singapore, Brunei, Indonesia, New Zealand, Canada và Hoa Kỳ. Hiện nay, APEC gồm 21 thành viên, ngoài 12 thành viên sáng lập, các thành viên khác bao gồm: Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Hồng Kông, Đài Loan, Mexico, Papua New Guinea, Chile, Peru, Nga và Việt Nam.

Cơ cấu tổ chức

1. Cấp chính sách

- Hội nghị không chính thức các nhà Lãnh đạo Kinh tế APEC (AELM)

- Hội nghị liên Bộ trưởng Ngoại giao - Kinh tế APEC

2. Cấp làm việc

- Hội nghị các quan chức cao cấp (SOM)

- Uỷ ban Thương mại và đầu tư (CTI) (1993)

- Uỷ ban Ngân sách và quản lý (BMC) (1993)

- Uỷ ban Kinh tế (EC) (1994)

- Uỷ ban SOM về hợp tác kinh tế-kỹ thuật (ESC) (1998)

- 11 nhóm công tác về: Kỹ thuật nông nghiệp, năng lượng, nghề cá, phát triển nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ, bảo vệ tài nguyên biển, doanh nghiệp vừa và nhỏ, thông tin và viễn thông, du lịch, xúc tiến thương mại, vận tải.

- 3 nhóm đặc trách của SOM về:

Thương mại điện tử

Mạng các điểm liên hệ về giới

Chống khủng bố

Ban Thư ký APEC (trụ sở ởSingapore) (1992)

Lịch sử

Tháng 1 năm 1989, Thủ tướng Úc Bob Hawke đưa ra lời kêu gọi kiến tạo một sự hợp tác kinh tế hữu hiệu hơn cho toàn vùng châu Á - Thái Bình Dương. Kết quả của lời kêu gọi này là hội nghị đầu tiên của APEC tổ chức tại Canberra, Úcvào tháng 10, bộ trưởng ngoại giao Úc, Gareth Evans làm chủ tọa. Với sự tham dự của các bộ trưởng đến từ 12 quốc gia, hội nghị kết thúc với lời cam kết sẽ tổ chức hội nghị hàng năm tại Singapore và Hàn Quốc.

Hội nghị Lãnh đạo APEC được tổ chức lần đầu vào năm 1993 khi Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton cho rằng ông có thể sử dụng hội nghị thượng đỉnh này như một công cụ có hiệu quả giúp đưa vòng đàm phán Uruguay (của WTO), lúc ấy đang lạc hướng, trở lại với lộ trình ban đầu. Tổng thống Clintơn quyết định mời các nhà lãnh đạo những nền kinh tế thành viên đến tham dự hội nghị tại đảo Blake, tiểu bang Washington. Tại đây, các nhà lãnh đạo kêu gọi tiếp tục tháo gỡ những rào cản thương mại và đầu tư, với viễn kiến về một "cộng đồng châu Á - Thái Bình Dương" sẽ tiến đến thịnh vượng thông qua hợp tác. Trụ sở của APEC được đặt tại Singapore.

Năm 1994, Bản dự thảo "Mục tiêu Bogor" của APEC được chấp thuận tại hội nghị thượng đỉnh tại Bogor nhằm vào mục tiêu mở rộng và tự do hoá các lãnh vực thương mại và đầu tư bằng cách giảm thiểu rào cản thuế quan trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương đến mức ở dưới năm phần trăm vào khoảng năm 2010 tại các nước đã công nghiệp hoá và năm 2020 tại các nước đang phát triển.

Năm 1995, APEC thiết lập một cơ quan tư vấn doanh nghiệp gọi làHội đồng Tư vấn Doanh nghiệp APEC (ABAC) với thành phần nhân sự là các nhà lãnh đạo doanh nghiệp đến từ các nền kinh tế thành viên (mỗi nước cử ba người).

Năm 1997 khi hội nghi thượng đỉnh APEC họp ở Vancouver, Canada, một cuộc tranh luận gay gắt đã nổ ra khi các nhà chính trị đã yêu cầu lực lượngCảnh sát Hoàng gia Canadasử dụng hơi cay chống lại những người biểu tình. APEC đã đẩy mạnh vòng đàm phán thương mại mới và ủng hộ chương trình hỗ trợ kiến tạo năng lực thương mại tại hội nghị thượng đỉnh năm 2001 tại Thượng Hải, dẫn đến sự khởi đầu thành công của Nghị trình Phát triển Dohamột vài tuần sau đó. Các nhà lãnh đạo cũng ủng hộ "Thoả hiệp Thượng Hải" do Hoa Kỳ đề xuất, nhấn mạnh đến việc thực thi những cam kết của APEC nhằm mở cửa thị trường, cải cách cơ chế và xây dựng năng lực. Như là một phần của thoả hiệp, các nhà lãnh đạo cũng cam kết phát triển và thực thi những tiêu chuẩn về tính minh bạch (transperancy) của APEC, cắt giảm chi phí giao dịch thương mại trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương khoảng 5% trong vòng 5 năm, và theo đuổi chính sách tự do mậu dịch liên quan đến các sản phẩm kỹ thuật và dịch vụ.

Năm 2004, Chile là quốc gia đầu tiên tại Nam Mỹ đứng ra tổ chức hội nghị thượng đỉnh APEC. Nghị trình năm 2004 của APEC tập chú vào các vấn đề khủng bố và thương mại, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ và chuẩn bị cho Thoả ước tự do mậu dịch và Thoả ước thương mại khu vực.

Năm 2005, hội nghị tổ chức vào tháng 11 tại Busan, Hàn Quốc, tập trung vào Vòng đàm phán thương mại Doha dự định được đem ra thảo luận tại Hội nghị bộ trưởng WTO họp tại Hồng Kông vào tháng 12 trong năm. Trước đó, các cuộc thương lượng đã được tổ chức tại Paris giữa các quốc gia thành viên WTO, trong đó có Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu(EU), đặt trọng tâm vào việc cắt giảm hàng rào thương mại nông nghiệp. EU phản đối các cắt giảm về thuế quan nông nghiệp vì nguy cơ làm tan rã tiến trình đàm phán, trong khi APEC cố gắng thuyết phục EU đồng ý cắt giảm phụ cấp nông nghiệp. Bên ngoài, các cuộc tụ họp phản kháng cách ôn hoà chống APEC diễn ra ở Busan nhưng không ảnh hưởng gì đến chương trình làm việc của APEC.

Năm 2006, Việt Nam lần đầu tiên đăng cai tổ chức Hội nghị cấp cao APEC lần thứ 14 tại thủ đô Hà Nội (từ ngày 12 đến 14/11/2006). Hội nghị tập trung vào việc thảo luận và thông qua "Kế hoạch hành động Hà Nội". Đây là một mục tiêu chính của Hội nghị APEC 2006. Nội dung xoay quanh việc thực hiện "Lộ trình Busan", hướng tới "Mục tiêu Bogor" về tự do hóa thương mại và đầu tư. Là một phương án cuối cùng, hy vọng sẽ cứu vãn được tình thế bế tắc của "Mục tiêu Bogor". Với vai trò Ban tổ chức của mình, Việt Nam đã đưa hội nghị ra một góc nhìn mới về sự hợp tác của các thành viên APEC, và giữa APEC với thế giới.

Năm 2017, Việt Nam lần thứ hai đăng cai tổ chức Hội nghị cấp cao APEC lần thứ 25 tại thành phố Đà Nẵng (từ 5 đến 11/11/2017), với chủ đề: "Tạo động lực mới, cùng vun đắp tương lai chung", quy tụ hơn 2.000 đại biểu đại diện cho 21 nền kinh tế thành viên tham dự, trong đó có nhiều nguyên thủ hàng đầu thế giới. Trước đó, từ 12/2016 đến 11/2017, Việt Nam đã tổ chức "Năm APEC 2017" với hàng hoạt hội nghị tại Hà Nội, Nha Trang, Vinh, Ninh Bình, Hạ Long (Quảng Ninh), Huế, Cần Thơ, Thành phố Hồ Chí Minh, Hội An (Quảng Nam). Hội nghị cấp cao APEC lần thứ 25 tại Đà Nẵng (Việt Nam) đã thông qua 8 văn kiện, trong đó quan trọng nhất là Tuyên bố Cấp cao Đà Nẵng “Tạo động lực mới, cùng vun đắp tương lai chung”, Việt Nam một lần nữa tô đậm dấu ấn của mình trên tiến trình hợp tác của APEC. Cam kết của các nhà lãnh đạo APEC “hướng tới thương mại, đầu tư mở và tự do trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương” và “ủng hộ một hệ thống thương mại đa phương dựa trên quy tắc, tự do, công bằng, mở, minh bạch và bao trùm” thể hiện thông điệp mạnh mẽ về quyết tâm giữ vững các giá trị cốt lõi của APEC là thúc đẩy tự do hóa thương mại và đầu tư, ủng hộ hệ thống thương mại đa phương. Cam kết này còn có ý nghĩa biểu tượng to lớn, vượt trên tầm khu vực trong bối cảnh lo ngại về việc phân bổ không công bằng các lợi ích của toàn cầu hóa, chủ nghĩa bảo hộ thương mại có xu hướng gia tăng. Điều đó đã tạo xung lực mới cho liên kết kinh tế quốc tế và vun đắp niềm tin vào các lợi ích của việc thúc đẩy tự do hóa thương mại và đầu tư toàn cầu đối với tăng trưởng và thịnh vượng của từng nền kinh tế, từng khu vực và toàn thế giới.